Showing posts with label nguoidentubinhduong pinterest. Show all posts
Showing posts with label nguoidentubinhduong pinterest. Show all posts

Saturday, September 25, 2021

Blog và văn hóa blog

 Blog và văn hóa blog


 
 
 
 
 
 
2 Votes


Blog và văn hóa blog: Cuộc sống thực trong thế giới ảo

Internet đang xóa đi biên giới và rút ngắn thời gian đến mức đo bằng vài phần trăm giây. Blog và mạng xã hội nói chung là dạng độc đáo của chia sẻ trải nghiệm cá nhân với cộng đồng. Đối với nhiều người, đây đang là phương thức mới để tự nhận biết mình và hoàn thiện nhân cách.

Online nhật ký

Blog đầu tiên trên thế giới xuất hiện khoảng năm 1994, còn hôm nay (theo thống kê chưa đầy đủ), ở Việt Nam có tới trăm ngàn người blogger, còn số người đọc các blog được ưa chuộng thì lên tới hàng triệu.

Đối thoại “ảo” (với người đọc blog của mình) thường đơn giản hơn, có cảm giác an toàn hơn. Tính năng thông thường của nhật ký (giấy) là khi ta mô tả cuộc sống, nó giúp ta cảm thấy cuộc sống như đẹp, thi vị, phong phú hơn. Còn nhật ký điện tử biến cuộc sống được ta mô tả trong đó thành cái có thể chia sẻ với người khác, một cách có ý nghĩa; thành cái có thể tạo hứng khởi cho người khác bằng trải nghiệm của mình.

“Viết blog giúp mình lập lại trật tự, cân bằng hơn cả trong tư duy và cảm nghĩ”, một nữ ký giả chia sẻ với tôi.

Như tấm gương soi

Nhật ký online, theo các chuyên gia tâm lý, là phương thức nhận biết mình nhờ so sánh tư duy và cảm xúc của mình với phản ứng của những người khác. Blog giúp tự kiểm định mình, thay đổi cách ta tự đánh giá theo chủ quan, hỗ trợ loại bỏ những ảo tưởng, huyễn hoặc, giúp mạnh dạn thú nhận với mình những thất bại (nhờ ẩn danh), chữa những “vết thương lòng”…

Một chữ thế hệ 9X hay dùng “tự tin” (thường gây cảm giác ngược lại, là họ không tự tin lắm, trên đường toàn cầu hóa) có thể thành sự thật nhờ blog. Nhiều bạn trẻ đưa lên blog những sáng tác của mình (văn học, hội họa, nhiếp ảnh, thậm chí cả một đoạn nhạc), và trở nên mạnh dạn hơn, nhờ các ý kiến khen ngợi (và cả phê bình) của những người đọc blog thường là vô tư, vì không rõ nhân thân của blogger.

Nếu các trò chơi trên “net” bị kết tội là làm con người ta “vô hồn” thành người máy, thì viết blog, viết facebook làm cho cuộc sống dường như hay hơn, đẹp hơn. Chia sẻ nỗi buồn, nỗi buồn được san sẻ; chia niềm vui thành nhân nó lên. Blog trữ tình, kích thích khám phá, cứ như trong lễ hội hóa trang.

Facebook được ai đó ví như một “gương” 3 chiều, giúp blogger soi mình từ nhiều phía hơn.

Phương tiện tự khẳng định và hỗ trợ

Trong thời đại củi quế gạo châu, giấy đắt như vàng, NXB trông thấy tác phẩm dày lắc đầu quầy quậy, Web cá nhân là thao trường cho văn nghệ sĩ tập sự. Biết rằng trong người xem có cả những tay tổ về cái nghề mình đang tập tọng, ai cũng cố hơn: cố diễn đạt, biểu thị tốt hơn những gì mình đang mong muốn “thả hồn” vào. Những blogger bình thường cũng cố nắn nót từng câu, cố hoàn thành nghĩa vụ tối thiểu là tôn trọng độc giả. Có lẽ vì thế họ được thưởng: những bình phẩm của người không quen biết thường khách quan hơn của gia đình, bạn bè.

Trái với sự bát nháo thường thấy trên mạng, nhiều mạng xã hội ở Việt Nam khá kỷ luật, nghiêm túc, nhanh nhạy, hiệu quả. Người ta làm từ thiện, giúp tìm công việc mới sau khi bị sa thải; giúp tìm bạn sau khi ly dị, chồng bỏ, những “bố trẻ” được dạy làm cha. Trên những mạng như Web trẻ thơ, các bà mẹ trẻ dạy nhau cách nấu thức ăn cho con nhỏ, chữa bệnh thường thức, tìm trường cho con… Blog giúp ta trụ lại với những hướng đích tốt, những nề nếp, thừa hưởng của cha ông, khi những giá trị cuộc sống hôm nay bị đảo lộn.

Blog không có chỗ cho các “tác phẩm được (tiền chùa) tài trợ”, nó tuân thủ quy luật khắc nghiệt của thị trường: blog viết hay thì nhiều người đọc, viết dở hoặc “bồi bút”, thì quên đi nhé. Viết blog “vô vọng”, gần như ném xuống biển như một cái chai đụng thư. Nhưng nếu blog hay, thì như cái chai mò từ đáy biển ai cũng muốn mở, để “vị thần” có phép màu chui ra.

Tài nguyên xây lòng tự trọng

Bản thân tôi từng là một học trò không chịu được sự im lặng trong lớp cuối những năm 60, khi thầy cô đặt câu hỏi, bị gán tên xấu là “thằng hay phát biểu”… Thời đó có nhiều bạn học giỏi lắm, một số trong họ nhưng thường ngồi yên, với câu trả lời đúng ngậm trong mồm. Nay blog hỗ trợ đả phá văn hóa “im lặng đáng sợ”.

Trên mạng xã hội, nhiều người mạnh dạn hơn khi cho ý kiến ở vị thế giấu tên, dần dà đạt tới cái (hô hào nhiều, đạt được ít) là sự tự tin thực sự của lớp trẻ. Ở nước ta thứ bậc, tôn ti trong xưng hô, chính xác đến ngặt nghèo, làm những người trẻ hơn, chiếu dưới thường phải né tiếng “nói leo”. Ngược lại, blog không hề “cá mè một lứa”. Trên mạng xã hội, dễ gặp may, được phản hồi về khúc mắc của mình từ một người từng trải hơn. Đồng thời cố đưa nhiều thông tin đời tư lên mạng là “nghề” của những kẻ tự đại, thích đánh bóng, hoặc sống nhờ scandal.

Không ít nhà báo dùng blog cho những dòng mà họ muốn viết. Họ có thể phân trần, giải thích về những gì họ từng viết, đang gây tranh cãi cho người đọc, để đi hai chân trên hai lề.

Thuốc “an thần”

Nhờ trang blog, có thể (giấu tên) kể về những khúc mắc của mình, giải phóng những giận dữ, bức bối. Nhật ký online như một phác đồ của chuyên gia tâm lý, người đọc giúp điều trị những tình huống gay go của cuộc sống, khi tâm hồn như trôi dạt về những dòng đời “vô cảm”. Bạn có thể chat (giãi bày) với người không quen biết về một rắc rối “gỡ mãi chẳng ra”, khi ngại chia sẻ điều đó với người nhà, vì muôn vàn lý do đời thường.

Vẫn có những người đọc blog kiểu phượng hoàng hái khế: “ăn một quả, trả một cục vàng”. Những lời khuyên, và cả những phê phán, chỉ trích đúng lúc của họ có ảnh hưởng tích cực đối với đời tư và sự nghiệp của các blogger.

Chân dung blogger

Nhiều blogger trở thành tác giả của những bộ “phim nhiều tập”, nơi họ đồng thời là đạo diễn và diễn viên chính. Trên đó, vần vũ những trận bão trí tuệ (brain storm).

Blog là môi trường bình đẳng, không phân biệt tuổi tác, địa vị, uy tín. Giấy thông hành trong không gian của các blogger là am hiểu, biết giãi bày, biết thảo luận. Nhưng văn hóa blog không chỉ gồm lịch thiệp, quan trọng hơn có lẽ là sự chân thành. Một điều nữa có lẽ cũng quan trọng với VN: blog giúp hoàn chỉnh sự tự đánh giá bản thân, tu chỉnh nhân cách, mở đường vào quãng đời mới, tích cực, đầy năng động.

Những blogger thường tiến bộ, giàu cảm thông, ưa chia sẻ, không ki bo ích kỷ. Họ thường lo lắng về những gì mình viết trên blog sẽ được nhân gian tiếp nhận ra sao. Từ đây, có thể hình thành những nhân cách sống “cứu nhân độ thế”. Viết blog giúp các bạn trẻ học cách diễn đạt tư duy mạch lạc hơn, tiến bộ hơn, không cần ai đó dạy “kỹ năng sống”.

Giàu vì… blog

Nếu có nhiều bạn nghĩa là giàu, thì nhiều blogger đã “giàu to”. Bên cạnh những ý kiến châm chọc, mà không phả hoàn toàn có hại, nhiều blogger đã bội thu những lời “còm” (commentary) hữu ích cho sự nghiệp củ mình, nhất là những ai có “số” văn chương. Thế hệ anh chị, cha mẹ chúng ta, thường phải giấu giếm, nhật ký, dọa kiện những ai muốn “nhòm trộm vào tâm hồn” họ. Giàu có về tâm hồn, nhưng cách viết nhật ký giấy có vẻ “nghèo” hơn, đơn độc hơn. Các blogger hôm nay có được cái có lẽ hơn cả tiền: sự động viên, ủng hộ, đến từ cả những ai không quen biết.

Lê Đỗ Huy

Phụ nữ Thủ đô số 39, 28.9.2011ICTPRess

Thank you so much 


Monday, June 08, 2020

Sự phát minh ra tiền


Sự phát minh ra tiền



Sự phát minh ra tiền-13
Tiền là một giai đoạn chủ chốt trong lịch sử kinh tế thế giới. Hơn nữa, người ta có thể thắc mắc vì sao việc phát minh ra tiền lại chậm trễ như thế. Truyền thống, được kế tục bởi các sử gia Hy Lạp cổ đại (Hérodote hay Xénophane) cho chúng ta biết rằng người Lydia, một dân tộc ở miền Trung Tiểu Á phía Tây là những người đầu tiên sử dụng tiền.
Trước tiên, các dân tộc thương buôn sử dụng cách trao đổi để thực hiện những cuộc giao dịch thương mại. Suốt thời kỳ cổ đại, tại Ai Cập, Lưỡng Hà, Phenicia hay trong vùng thung lũng sông Indus, chế độ kinh doanh vẫn là trao đổi.

Sự phát minh ra tiền-11

Những phương cách giao dịch đầu tiên

Người ta có thể giả định rằng từ thơi tiền sử, con người đã thực hiện những cuộc giao dịch dưới dạng trao đổi. Nhưng cùng với sự phát minh ra chữ viết mà chúng ta có dấu vết đầu tiên về những giao dịch đó.
Bằng cách dựa vào những hợp đồng tư hay bằng chứng viết tay của người Hy Lạp và người Do Thái. Các bức bích họa trên những ngôi mộ Ai Cập là các quyển sách mở thực sự.
Người ta lượng định chẳng hạn một cánh đồng theo một loạt đồ vật khác nhau: thỏi bạc được đánh giá theo trọng lượng, lừa, bò mộng, vải vóc. Người ta trao đổi lúa mì với các thứ rượu hay chà là đổi lại các cây xà gỗ.
Các vật chuẩn thường được dùng là ngũ cốc và gia súc. Nguồn gốc của phương cách này đã lưu truyền trong từ ngữ của chúng ta dưới dạng tĩnh từ “tiền tệ”, đến từ tiếng La Mã “pecus” có nghĩa là “bầy đàn”. Tại các khu vực khác, người ta sử dụng vỏ sò hến, trà, ngọc trai hay cá mòi khô như tại Terre-Neuve.

Sự phát minh ra tiền-16
Từ thời đại Đồ đồng (thiên niên kỷ thứ 3 trước Công nguyên), đồ kim loại thay thế dưới các dạng khác nhau: thỏi, bột, vảy, vòng… Phương tiện trao đổi mới có nhiều ưu điểm:
  • Nó không tiêu mất.
  • Nó không cồng kềnh.
  • Nó dễ phân chia.
Với các kỹ thuật khai thác mỏ và luyện kim, vàng, bạc, hợp kim, đồng, chì, sắt và thiếc sẽ được sử dụng như những phương tiện trao đổi. Nhanh chóng, cái cân trở thành một công cụ cần thiết để thực hiện những giao dịch.
Tiền cân là tiền tệ cổ xưa nhất. Nhu cầu đảm bảo tỷ trọng và trọng lượng các kim loại đó khiến tư nhân phải đóng dấu kiểm những thỏi kim loại. Quốc gia không đảm bảo loại “tiền” đó.

Sự phát minh ra tiền-15
Chính tiếng tăm tốt của thương nhân đảm bảo chất lượng của dấu đóng. Từ đó, con đường hướng đến tiền tệ nói riêng đã mở ra, tức là với sự đảm bảo công thay thế cho đảm bảo tư nhân. Tiền này được gọi là “tiền dập”, tức là được đảm bảo bởi một công quyền chính trị hay tôn giáo để ấn định một giá trị cố định.

Đồng tiền đầu tiên được biết

Chính từ lúc hay một xã hội hiện đại tiến đến một sự phân công lao động lớn hơn mà tiền tệ khuyến khích việc thay thế cho chế độ trao đổi. Nguồn gốc của từ “tiền” đến từ tên của nữ thần La Mã Juno Moneta bởi vì chính trong sự lệ thuộc đền thờ của nữ thần mà người La Mã đã lập ra 1 xưởng để dập những đồng tiền của đế chế La Mã.

Sự phát minh ra tiền-7
Tiền đồng La Mã kỷ niệm 70 năm chiếm Jerusalem
Các nhà khảo cổ đã khám phá những đồng tiền trong nền mong của đền thờ Artémis ở Ephèse được xây dựng vào năm 645 trước CN. Đó là những đồng tiền hợp kim được dập hình đầu sư tử, huy triều của thủ đô Lydia, Sardes (Thổ Nhĩ Kỳ hiện nay). Đồng tiền đầu tiên có từ thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên.

Sự phát minh ra tiền-3
Tiền Lydia dập hình đầu sư tử và bò rừng
Khám phá này xác nhận những lời nói của Hérodote bảo rằng đấy là tiền vàng và bạc. Quả thật đó là hợp kim của vàng và bạc. Tuy nhiên người ta không biết từ khi nào đồng tiền này được sử dụng tại Tiểu Á.
Crésus la# vị vua Lydia cuối cùng trị vì từ năm 560 đến 546 trước Công nguyên. Sự giàu có huyền thoại của ông dựa trên các mỏ và những cục vàng trong sông Pactole và trên sự kiểm soát những con đường thương mại đi đến biển Égée.

Sự phát minh ra tiền-10
Tiền Ấn-Hy Lạp bằng bạc
Ông là người đầu tiên dập các đồng tiền vàng và bạc. Người ta suy luận rằng ông đã muốn cải thiện sự bất tiện của hợp kim vàng có chứa một lượng vàng không cố định.

Sự phổ biến tiền trên thế giới

Sự phổ biến tiền đã nhanh chóng được diễn ra trong thế giới Hy Lạp: Egine và Ionie chấp nhận nguyên tắc vào năm 625 trước Công nguyên. Corinthe tiếp nối vào năm 60 rồi đến Athènes năm 594.

Sự phát minh ra tiền-4
Tiền dập hình nữ thần Athena
Sự phát minh ra tiền-5
Tiền Athènes hình con cú mèo của nữ thần Athena
Mỗi thành phố áp dụng 1 loại hình đặc thù : chim cú cho Athènes, hình của Aréthuse hay xe tứ mã cho Syracuse… Tuy nhiên kỹ thuật dập rất thô thiển. Có nhiều đồng tiền tại Hy Lạp cổ: Darique, Drachme, Obole…

Sự phát minh ra tiền-2
Tiền ở Sicile thế kỷ thứ 4 trước CN
Những đồng tiền La Mã đầu tiên là bằng đồng: tiền sesterce, tiền dupondius, tiền semi, tiền quadran. Đồng bạc xuất hiện trong hệ thống tiền tệ La Mã với đồng “denier” vào năm 211 trước Công nguyên.

Sự phát minh ra tiền-1
Tiền Hy Lạp có hình Alexandre Đại đế
Sự phát minh ra tiền-6
Tiền vàng in hình đại đế Trajan
Vào thời Jules César, vàng xuất hiện. Đó là đồng vàng trị giá bằng 25 denier. Các đồng tiền dập với hình các đại đế hoặc kỷ niệm những chiến thắng của họ.
Tại Gaule, đồng tiền xuất hiện vào thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên qua trung gian một thuộc địa Hy Lạp được lập tại Marseille. Mỗi sắc tộc Gaule sản xuất tiền riêng với lượng khá ít. Những kiểu tiền rất khác nhau.

Sự phát minh ra tiền-8
Tiền vàng của người Arverne được dập hình Vercingétorix
Trong số các đồng tiền Gaule được biết nhiều nhất, người ta thấy tiền vàng statère sản xuất bởi người Arvernes (sắc tộc trên rặng núi Central sau đó nhượng tên lại cho vùng Auvergne) nhờ các mỏ vàng. Người Parisii, dân tộc ở Lutèce (hiện nay là cù lao Cité, thủy tổ của Paris) dùng vàng để dập tiền. Đó là một dấu hiệu về sự trù phú và thịnh vượng. Tiền statère vàng với hình ngựa có lẽ là đồng tiền đẹp nhất.

Sự phát minh ra tiền-9
Tại Trung Quốc, chính vào đầu thiên niên thứ nhất trước Công nguyên tiền bằng đồng đã xuất hiện. Những đồng tiền có dạng đặc biệt và khác nhau: tròn, hình lưỡi dao, dạng cái mai hay cái cuốc. Mỗi thành phố dập tiền riểng, điều này giải thích cho sự đa dạng trên lục địa mênh mông chưa được thống nhất đó.
Dưới thời nhà Tần (năm -221 đến năm -206 trước Công nguyên), đồng trinh trở thành đồng tiền thông dụng. Đồng tiền tròn đó có đặc điểm là có một lỗ ở giữa. Như thế, người ta có thể xâu chúng lại nhiều đồng bằng một sợi dây để mang theo.

Sự phát minh ra tiền-14
Hiện nay tiền tín dụng (tiền giấy) từ lâu đã thay thế cho sự trao đổi. Đã quá xa rồi thời kỳ mà người ta dùng ngọc trai như tiền trao đổi.
Tiền kim loại cổ được thể hiện bằng tiền lẻ, giúp việc thiết lập trong những giao dịch hàng ngày. Việc nghiên cứu tiền tệ và các huy chương cũng như cách sắp xếp của chúng tạo thành nền tảng của khoa học tiền cổ.

Sự phát minh ra tiền-12
Khoa học này rất phong phú kiến thức về lịch sử, lịch sử các tôn giáo và tập quán, và tất nhiên, về kiến thức của những sự trao đổi và nền kinh tế của mọi thời đại.

Đăng bởi Minh Luân – Doanhnhanplus
Nguồn KTNN 1040

Thank you so much

“Connect the dots” kỹ năng thiết yếu trong thời công nghiệp 4.0

“Connect the dots” kỹ năng thiết yếu trong thời công nghiệp 4.0


Chắc hẳn khi nghe cụm từ “Connecting the dots”, nhiều người sẽ nghĩ ngay đến trò chơi giải đố “kết nối các dấu chấm” để tìm ra bản vẽ hoàn chỉnh. Trên thực tế, đây không chỉ là trò chơi được trẻ em yêu thích, đó còn là một kỹ năng quan trọng trên con đường phát triển sự nghiệp ở thời đại công nghiệp 4.0 hiện nay.
xem tiếp

Tiền kỹ thuật số

Tiền kỹ thuật số


Đây có phải là thời điểm hoàn hảo để các ngân hàng trung ương phát hành tiền kỹ thuật số?

Tuesday, May 05, 2020

Tại sao lập trình viên toàn là “cú đêm”?

Tại sao lập trình viên toàn là “cú đêm”?



Tại sao lập trình viên toàn là “cú đêm”? Tâm sự của một anh chàng hơn 30 năm tuổi nghề sẽ cho thấy lý do
Tại sao lập trình viên toàn là "cú đêm"? nguoidentubinhduong.com
Tại sao lập trình viên toàn là “cú đêm”?
Đối với một coder, làm việc ban ngày hay ban đêm không quan trọng bằng việc lắng nghe cơ thể mình và tìm ra được khung thời gian tối đa hóa được hiệu suất làm việc của mình.
Có một câu nói vui rằng: các lập trình viên giống như những cỗ máy có khả năng biến café thành những dòng code. Quả thật với những con cú đêm như các lập trình viên, café không chỉ là một thức uống thông thường, nó còn là nhiên liệu để họ có thể hoạt động hết công suất của mình vào ban đêm.
Nhưng tại sao ban đêm lại là thời điểm ưa thích của các lập trình viên như vậy? Khó có thể nói điều này đúng với mọi người, nhưng lời tâm sự trên trang Quora của một lập trình viên gạo cội với hơn 30 năm kinh nghiệm như Max Kielland dưới đây có thể cho chúng ta thấy một phần lý do của việc này.
Coder làm đêm .nguoidentubinhduong
Coder làm đêm
“Tôi chỉ có thể nói về điều này dựa trên trải nghiệm của bản thân với hơn 30 năm kinh nghiệm trong nghề lập trình. Rất nhiều nhà quản lý, CEO và đồng nghiệp đã cố gắng đưa tôi tới văn phòng “vào giờ làm việc” và tất cả đều thất bại – CẢM ĐỘNG QUÁ. Trong văn phòng, tôi hoàn toàn bị phân tâm và cho đến khi tôi tìm thấy “dòng suy nghĩ” của mình, một số nhân viên bảo vệ sẽ tống tôi khỏi tòa nhà vì đã đến giờ đóng cửa.
Trở thành lập trình viên không giống như lật chiếc hamburger hay bất kỳ công việc nào khác, khi bạn chỉ cần hoàn thành các việc định sẵn và về nhà. Lập trình là một quá trình sáng tạo và có tính trừu tượng cao. Đọc tốt các dòng code cũng giống như đọc thơ, và cũng giống như bất kỳ nghệ sĩ nào khác, như họa sĩ, nhà văn, nhà thiết kế, … chúng tôi không thể sáng tạo và năng suất 100% trong thời gian từ 8 giờ sáng đến 5 giờ chiều.
Chúng tôi đều cần các môi trường khác nhau để thúc đẩy và kích thích trí óc mình. Khi tôi bị mắc kẹt ở đâu đó, tôi chỉ cần đánh lạc hướng bản thân bằng cách dành thời gian với bạn bè, đi xuống phố kiếm ít café, nhìn ngắm mọi người và thư giãn. Tôi biết tiềm thức của tôi vẫn sẽ tiếp tục xử lý công việc đang dang dở và một giải pháp từ hư không có thể đột ngột nảy ra trong tâm trí tôi.
Tuy nhiên điều này có thể gặp một chút khó khăn khi vào giữa đêm trong một thành phố nhỏ đang yên giấc ngủ.
Tại sao lập trình viên toàn là cú đêm? Tâm sự của một anh chàng hơn 30 năm tuổi nghề sẽ cho thấy lý do - Ảnh 2.nguoidentubinhduong
Làm đêm sẽ khiến coder không phải dán các tờ cảnh báo không làm phiền trên lưng như thế này nữa.
Vì vậy khi mọi đồng nghiệp, CEO và các nhà quản lý của tôi từ bỏ việc lôi kéo tôi đến văn phòng và để tôi tự do, tôi đã quẳng luôn đồng hồ và chuông báo thức đi. Tôi lên giường khi mệt và ngủ đến khi nào tôi muốn và sau đó dậy làm việc. Giữa trưa hoặc đêm đều không quan trọng, tôi chọn cách lắng nghe cơ thể mình hơn. Điều đó khiến tôi có năng suất cao nhất và tôi chọn làm việc từ đêm cho đến ban ngày. Lúc đó sẽ:
– Không ai gọi điện.
– Không cần trả lời email.
– Không cần nói chuyện.
– Không ai nhìn qua vai bạn (không phải lo lắng về điều gì).
Ngay cả khi đi on-site cho khách hàng nước ngoài (tôi đi du lịch rất nhiều nơi trên thế giới), tôi cũng có vài điều kiện: Một phòng khách sạn tốt với thật nhiều không gian và một chiếc bàn lớn, một màn hình to, đường truyền internet tốt và một số thỏa thuận vận chuyển để đưa đón tôi giữa khách sạn và trụ sở của khách hàng khi cần thiết. Đó là bởi vì tôi có hiệu suất tốt nhất khi ngồi yên và làm việc trong phòng khách sạn.
Nghe có vẻ sang chảnh đúng không? Nhưng đối với tôi, đây là cách để mình tối đa hóa năng suất và khách hàng không phải quan tâm miễn là tôi trình bày được những giải pháp hoạt động hiệu quả và do tôi có thể làm việc với hiệu suất tốt nhất của mình, tôi có thể đưa ra các kết quả rất nhanh và mọi người đều vui vẻ, một thỏa thuận win-win.
Tất nhiên, tôi sẽ phải điều chỉnh theo thế giới thực khi cần thiết, ví dụ, các cuộc họp với khách hàng. Đây có lẽ là lúc duy nhất tôi cần đến đồng hồ báo thức.
Khi làm việc mà không cần đến bất kỳ đồng hồ nào, dường như tôi sẽ hòa vào nhịp điệu ngủ vào buổi sáng và dậy lúc giữa trưa. Tùy thuộc vào deadline của công việc, thời gian “ban ngày” của tôi (khi tôi thức dậy) có thể dài hơn thông thường, không phải chu kỳ 24 giờ mỗi ngày, mà có thể lên tới 28 tiếng hoặc thậm chí 30 tiếng mỗi ngày. Điều đó là do việc thay đổi thời điểm “ban đêm” của tôi (khi bắt đầu đi ngủ) một vài tiếng mỗi ngày cho đến khi tôi quay lại nhịp sống bình thường của thế giới thực.
Và quay lại câu hỏi ban đầu. Lập trình viên thường làm buổi đêm bởi vì nó là thời gian tối ưu nhất cho họ để làm việc, khi không có điện thoại, không email hay không có ai nhìn qua vai họ.”
Nói vậy không có nghĩa bạn sẽ thấy các công ty IT với văn phòng vắng vẻ vào ban ngày và đông đúc vào ban đêm. Nó không có nghĩa là mọi lập trình viên đều là những con cú đêm với quầng mắt thâm tím, đó là việc mỗi lập trình viên phải xác định được thời gian làm việc hiệu quả nhất của mình và cách thức để teamwork với các thành viên khác trong nhóm.”
Tham khảo Quora
NGUYỄN HẢI, THEO TRÍ THỨC TRẺ

Thank you so much