Showing posts with label Kinh Tế. Show all posts
Showing posts with label Kinh Tế. Show all posts

Thursday, January 05, 2023

10 sự kiện thế giới nổi bật 2022

10 sự kiện kinh tế - xã hội thế giới được quan tâm nhất năm 2022.

1. Hiệp định RCEP có hiệu lực

Có hiệu lực từ ngày 1/1/2022, Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) là hiệp định tự do thương mại (FTA) lớn nhất thế giới và tiến tới loại bỏ 92% thuế hàng hóa được giao dịch giữa các bên ký kết đã phê chuẩn hiệp định, trong đó có Việt Nam. 

RCEP được ký kết vào tháng 11/2020 sau 8 năm đàm phán. FTA này tạo ra thị trường chiếm gần 30% dân số thế giới (khoảng 2,2 tỷ người). Theo Viện Kinh tế Quốc tế Peterson (Mỹ), RCEP có hiệu lực có thể làm tăng thu nhập toàn cầu lên 186 tỷ USD/năm đến năm 2030 và thêm 0,2% vào nền kinh tế các nước thành viên.

2. Biến chủng Omicron lây lan toàn thế giới 

Sau thời gian giảm ổn định, toàn thế giới đầu năm nay ghi nhận đợt tăng ca nhiễm Covid-19 trên toàn cầu đầu tiên từ cuối tháng 1/2022 do biến chủng mới OmicronTheo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), trong giai đoạn 16/2 - 17/3/2022, hơn 85% ca nhiễm ghi nhận toàn cầu là BA.2 (còn gọi Omicron "tàng hình").

Hiện, WHO đánh giá thế giới vẫn đang trong giai đoạn đại dịch và cảnh báo về các biến thể mới của SARS-CoV-2 có thể khiến Covid-19 trở nên phức tạp và tăng trở lại.


3. Chiến sự Nga - Ukraine bùng nổ

Ngày 24/2/2022, Tổng thống Nga Vladimir Putin tuyên bố triển khai chiến dịch quân sự đặc biệt ở Donbass và kêu gọi quân đội Ukraine trong khu vực hạ vũ khí. Đến cuối tháng 9, ông Putin đã ký lệnh sáp nhập 4 tỉnh Ukraine là Kherson, Zaporizhzhia ở miền Nam và Donetsk, Lugansk ở miền Đông, sau các cuộc trưng cầu dân ý ở những khu vực này.

Hơn 9 tháng xung đột, Moskva và Kiev đã thực hiện 5 vòng đàm phán nhưng không đạt kết quả cụ thể nào và cơ hội hoà bình vẫn còn xa vời.

4. Khủng hoảng năng lượng toàn thế giới

Việc Nga cắt nguồn cung khí đốt cho châu Âu trong bối cảnh chiến sự Nga - Ukraine bùng nổ, đã làm chao đảo thị trường năng lượng toàn cầu, gây ra một cuộc khủng hoảng năng lượng với chiều sâu cùng sự phức tạp chưa từng thấy, trong đó EU là trung tâm.

Khủng hoảng năng lượng tạo ra các tác động to lớn đối với thị trường, chính sách và các nền kinh tế. Đồng thời, những người nghèo nhất và dễ bị tổn thương nhất như thường lệ đang phải chịu đựng nhiều nhất. Trước tình hình này, không chỉ châu Âu mà nhiều nền kinh tế trên thế giới đua nhau tìm nguồn năng lượng thay thế như năng lượng mặt trời, năng lượng gió.

Trước khủng hoảng năng lượng, không chỉ châu Âu mà nhiều nền kinh tế thế giới đang đua nhau tìm nguồn năng lượng thay thế.


5. Cựu Thủ tướng Nhật Shinzo Abe bị ám sát

Gần 2 năm sau khi rời nhiệm sở, cựu Thủ tướng Shinzo Abe đã qua đời vào ngày 8/7/2022 do bị ám sát tại sự kiện vận động tranh cử ở thành phố Nara, phía Tây Nhật Bản. Là một chính khách lớn và thủ tướng tại vị lâu nhất Nhật Bản, sự kiện ông Abe bị ám sát gây chấn động không chỉ với chính giới mà cả người dân Nhật.

Ở tuổi 67 và không còn giữ vị trí chính thức trong Chính phủ, ông Abe vẫn phủ bóng lên đảng Dân chủ Tự do (LDP) cầm quyền và các di sản của ông tiếp tục định hình Nhật Bản và cả khu vực. Sau cái chết của ông, Chính phủ Nhật đã truy tặng Huân chương Hoa Cúc cho vị cố thủ tướng vì "những thành tựu trong sự nghiệp". Trước ông Abe, chỉ có 3 cựu thủ tướng khác được trao Huân chương này.

6. Lạm phát toàn cầu tăng mạnh và đạt đỉnh

Số liệu của Bloomberg Economics cho thấy lạm phát toàn cầu quý III/2022 là 9,8% và được dự báo 3 tháng cuối năm ở mức 9,5% và năm sau sẽ là 5,3%. Còn theo phân tích của Financial Times, nhiều chỉ số kinh tế cho thấy lạm phát trên toàn cầu đã lên đến đỉnh đểm và tốc độ tăng giá cả hàng hóa sẽ chậm lại trong những tháng tới.

Dù vậy, lạm phát hạ nhiệt không có nghĩa là điều tồi tệ nhất đã qua, nhất là với các nhà hoạch định chính sách. Theo CEO Morgan Stanley James Gorman, các ngân hàng trung ương có thể đạt một số tiến bộ với mục tiêu lạm phát bằng cách tăng lãi suất. Tuy nhiên, việc quay lại mức 2% mà hầu hết đặt ra có thể khó khăn trong một thế giới mà chuỗi cung ứng, nhân khẩu học và những thách thức khác sẽ giữ giá cả ở mức cao hơn.

7. Nữ hoàng Anh băng hà

Nữ hoàng Elizabeth II - vị quân vương trị vì lâu nhất của Vương quốc Anh, đã băng hà vào ngày 8/9/2022 tại Lâu đài Balmoral, sau 70 năm trên ngai vàng, thọ 96 tuổi. Là biểu tượng của sự ổn định trong thời kỳ suy tàn của đế chế Anh và tình trạng hỗn loạn trong chính gia đình bà, Nữ hoàng Elizabeth II là quốc vương duy nhất mà hầu hết người Anh từng biết.

Nữ hoàng Elizabeth II trên ban công Điện Buckingham hồi tháng 6. Ảnh: AFP.


Từ ngày 6/2/1952, Nữ hoàng Elizabeth II trị vì một nước Anh mới được phục hồi sau Thế chiến thứ hai đang bị kiệt quệ tài chính và mất đi đế chế của mình. Trải qua 15 đời thủ tướng, từ Winston Churchill đến Liz Truss, Nữ hoàng Anh đã trở thành biểu tượng không thể thay thế, khi sự hiện diện của bà mang lại sự yên tâm, ngay cả với những người phớt lờ hoặc ghét chế độ quân chủ.

8. Thảm hoạ giẫm đạp ở Itaewon, Hàn Quốc

Chỉ trong tháng 10/2022, liên tiếp các thảm kịch do giẫm đạp xảy ra tại những sự kiện đông người. Trong đó, thảm hoạ ở Itaewon nhận được sự quan tâm hơn cả.

Vào đêm 29/10, hàng chục nghìn người đã chen lấn, giẫm đạp nhau trong lễ hội nhân ngày Halloween tại phố Itaewon, thủ đô Seoul, Hàn Quốc. Đây là lễ hội lớn đầu tiên kể từ khi nước này nới lỏng các hạn chế của Covid-19. Theo giới chức Hàn Quốc, ít nhất 154 người đã thiệt mạng, trong đó có 25 người ngoại quốc, phần lớn nạn nhân là phụ nữ độ tuổi từ 20 tới 30.

9. Dân số thế giới vượt 8 tỷ người

Năm 1803, dân số thế giới lần đầu đạt 1 tỷ người. Hơn 200 năm sau, dân số thế giới vượt 8 tỷ người vào ngày 15/11/2022.

Song song với nhiều thuận lợi là không ít thách thức mà 8 tỷ người sẽ đối mặt. Lượng người khổng lồ trên Trái Đất sẽ tác động mạnh mẽ tới an ninh thế giới, vấn đề kinh tế, cung cấp lương thực, áp lực lên môi trường cũng như nguy cơ cạn kiệt tài nguyên. Đây đều là những vấn đề đã, đang xảy ra và nó sẽ đặc biệt nghiêm trọng khi quy mô dân số không ngừng tăng.

-4156-1672031413.png

10. Argentina lần thứ ba vô địch World Cup

Sau 120 phút thi đấu, trận chung kết World Cup 2022 giữa Argentina và Pháp khép lại bằng loạt sút luân lưu 11m với chiến thắng "mỉm cười" cùng Argentina, giúp quốc gia Nam Mỹ lần thứ 3 vô địch thế giới. Chức vô địch cũng là món quả trọn vẹn dành cho cá nhân danh thủ Lionel Messi sau những gì anh đã cống hiến cho đội tuyển quốc gia, và đặc biệt là ở kỳ World Cup cuối cùng trong sự nghiệp.

 

Doanhnhansaigon

Tuesday, April 03, 2012

Đồng nội tệ sẽ ổn định trong thời gian tới

Trong cuộc trao đổi mới đây, TS. Lê Anh Tuấn, Giám đốc nghiên cứu của Dragon Capital cho rằng, dù Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với vấn nạn lạm phát cao, một số vấn đề trên thị trường ngoại hối, nhưng nhiều chỉ dấu cho thấy hầu hết NĐT nước ngoài đều tin tưởng vào sự ổn định sắp tới của đồng tiền Việt Nam.

Gần đây có nhiều ý kiến lo ngại về việc VND đang được định giá quá cao so với giá trị thực, nên bất lợi cho thương mại quốc tế. Quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào?

Đây là một lo ngại hợp lý. Tuy nhiên, nếu sử dụng vấn đề này để khuyến nghị việc phá giá hay điều chỉnh tỷ giá của VND thì tôi nghĩ chưa hợp lý. Ở đây có 2 vấn đề.

Thứ nhất, việc xác định đồng VND đang được định giá quá cao hay dưới giá trị thực là không dễ. Các nhà kinh tế thường sử dụng tỷ giá thực hiệu lực (Real Effective Exchange Rate – REER) để định giá một đồng tiền. REER của VND nghĩa là tỷ giá hối đoái giữa VND với một rổ ngoại tệ của các nước mà Việt Nam có quan hệ ngoại thương, nhưng đã được hiệu chỉnh theo lạm phát của các nước này. Nếu tỷ giá REER của VND lên giá, thì năng lực cạnh tranh của hàng Việt Nam sẽ kém đi và ngược lại. Tuy nhiên, cách tính REER không đơn giản, nó phụ thuộc vào năm gốc để so sánh, sự thay đổi đối tác thương mại cũng như mức độ lạm phát của các đối tác này.

Thứ hai, bài toán tỷ giá liên quan đến mọi mặt của đời sống kinh tế, chứ không riêng gì ngoại thương. Việc phá giá VND cần phải rất thận trọng. Bởi việc này có thể làm gia tăng gánh nặng nợ bằng ngoại tệ của Chính phủ và DN, ảnh hưởng tới lòng tin của các NĐT.

Vậy theo ông, sức ép mất giá của VND trong năm 2011 sẽ đến mức độ nào?

Kể từ năm 2007 cho đến nay, VND đã trải qua 3 giai đoạn biến động giá lớn. Mỗi một giai đoạn đều do các nhân tố khác nhau “trực tiếp” dẫn dắt, do đó việc xử lý trong từng giai đoạn đương nhiên phải khác nhau. Năm 2008, biến động lớn trên thị trường ngoại hối là do các NĐT nước ngoài bán khoảng 3 tỷ USD trái phiếu để rút vốn khi lạm phát lên rất cao. Vào những tháng cuối năm 2009, biến động tỷ giá là do lượng cung VND quá lớn trên thị trường, đồng thời các hoạt động buôn lậu trên thị trường vàng khiến USD khan hiếm. Đây cũng là năm mà sai số trong cán cân thanh toán lên đến 12 tỷ USD. Những tháng cuối năm 2010 và đầu năm 2011, biến động ngoại hối một phần do tín dụng ngoại hối tăng mạnh vào đầu năm 2010, kỳ vọng VND giảm giá do đã liên tục bị giảm giá trong thời gian vừa qua, thêm vào đó là dự trữ ngoại hối thấp và lạm phát tăng cao.

Một điều đáng chú ý trong thời gian gần đây là bất chấp lạm phát tăng cao, VND vẫn liên tục tăng giá. Điều này cho chúng ta thấy, ở mỗi thời điểm khác nhau, các yếu tố khác nhau sẽ tác động lên tỷ giá.

Nhìn vào cán cân thanh toán, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy lượng USD chảy vào Việt Nam vẫn lớn hơn so với lượng USD chảy ra. Tuy nhiên, dự trữ ngoại hối lại liên tục sụt giảm từ năm 2008, điều này là do sai số trong cán cân thanh toán, chủ yếu là do lượng ngoại tệ găm giữ trong dân. Điều đó thể hiện ở vấn đề niềm tin vào VND, do đó, để xử lý vấn đề ngoại hối, cần phải tạo được niềm tin vào đồng nội tệ.

Tuy nhiên, điều đáng mừng là theo chỉ số “Offshore Index Pressure” – chỉ số niềm tin của nhà đầu tư nước ngoài vào VND (chỉ số cho biết các nhà đầu tư nước ngoài đang cho rằng VND sẽ lên giá hay mất giá bao nhiêu phần trăm trong thời gian sắp tới) cho thấy, các nhà đầu tư nước ngoài cho rằng, VND sẽ ổn định trong thời gian tới.

Theo chỉ số Offshore Pressure Index, vào những tháng giữa năm 2008, nhà đầu tư nước ngoài tin rằng, VND sẽ mất giá khoảng 30% trong vòng 6 tháng. Chỉ số này cũng cho chúng ta thấy rằng, vào những tháng cuối năm 2010 và đầu năm 2011, nhà đầu tư nước ngoài kỳ vọng VND sẽ mất giá khoảng 9% trong khoảng 6 tháng. Tuy nhiên, hiện nay chỉ số Offshore Pressure Index cho thấy kỳ vọng mất giá VND trong vòng 6 tháng tới của nhà đầu tư nước ngoài là rất thấp.

Chính phủ đưa ra mục tiêu ổn định tỷ giá, theo ông, trong ngắn hạn nên có những biện pháp gì và cần những động thái nào trong dài hạn ?
Theo tôi, về ngắn hạn, Nghị quyết 11 và các bước đi vừa qua của Chính phủ là hợp lý: phá giá biên độ rộng (9,3%) để chặn kỳ vọng phá giá tiếp theo, qua đó giảm nhu cầu tích trữ USD. Việc liên tục gửi tín hiệu về việc kiên quyết giữ tỷ giá, quyết liệt chống lạm phát cũng rất quan trọng.

Các chính sách loại trừ những tác động tiêu cực của dòng vốn thì Việt Nam còn nhiều dư địa, ví dụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc của Việt Nam hiện chỉ là 3% so với 19,7% của Trung Quốc, 10% của Mỹ. Những diễn biến trên thị trường ngoại hối vừa qua cho thấy phản ứng của thị trường là khá tích cực đối với chính sách của Chính phủ.

Việc hạn chế thị trường ngoại hối tự do, xóa kinh doanh vàng miếng cũng rất cần để củng cố sức mạnh của chính sách tiền tệ, nhưng cách thức thực hiện làm sao để có hiệu quả lâu dài là vấn đề cần tính đến. Nếu chỉ xóa bỏ bằng các biện pháp hành chính, trong khi hệ thống ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu chính đáng về ngoại tệ của người dân, thì biện pháp này sẽ không bền vững.

Tuy nhiên, điều đáng ngại là dư địa của chính sách tiền tệ đã không còn nhiều để giải quyết vấn đề lạm phát. Chìa khóa của giải pháp dài hạn nằm ở chính sách tài khóa, trong đó vấn đề hiệu quả đầu tư cần phải được đặt lên hàng đầu.

Hồng Dung
Đầu Tư Chứng Khoán

Chặn đà lạm phát: Mong sao cho đến tháng 7 ?


Một ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, trong một phiên họp của ủy ban này tổ chức vào hồi đầu năm, khi bàn về vấn đề lạm phát đã cho rằng, mặt bằng giá mới sẽ được hình thành xong vào khoảng tháng 7.

Cũng theo ông, căn cứ trên mặt bằng giá mới này, lạm phát mới có “cớ” để thoái lui vào những tháng còn lại.

Khi nhắc đến tháng 7, vị ủy viên nói trên có kết nối việc lạm phát giảm với thời điểm mà Chính phủ đã hoàn thiện xong bộ máy mới. Nhưng, có vẻ như khó mà tìm được mối liên hệ cụ thể nào giữa việc giảm lạm phát và việc hoàn thiện xong bộ máy mới của Chính phủ, khi mà mọi phân tích về các nguyên nhân dẫn đến lạm phát, ngay cả giới chuyên gia, cũng có vẻ “ngại” khi nhắc đến nguyên nhân là từ phía điều hành.

Một trong những chuyên gia rất hăng hái phân tích về lạm phát là TS. Cao Sỹ Kiêm, khi trò chuyện với người viết, có nói rằng: “Tất nhiên, lỗi về điều hành khiến lạm phát tăng cao là có, nhưng tôi không thể lượng hoá được bao nhiêu phần trăm”.

Dù vậy, ông Kiêm khen ngợi Chính phủ trong việc dũng cảm quyết định tăng giá một loạt mặt hàng thiết yếu, gần như trong cùng một thời điểm. Theo ông, có quyết liệt như vậy, cấp tập như vậy, thì mới sớm hình thành được mặt bằng giá mới, sau đó mới yên tâm để kéo từ từ xuống!

Thời điểm có mặt bằng giá mới này, theo ông Kiêm, cũng là vào khoảng tháng 7.

Trong cuộc họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội diễn ra tuần cuối tháng 4 rồi, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Thu Ba sau khi phản ánh về thực tế mà đi công tác tại các địa phương, nơi nào cũng than phiền về tình hình giá cả tăng cao, đã nhận xét: “Để xảy ra lạm phát cao đúng là có nguyên nhân từ khách quan, nhưng có vấn đề về điều hành của Chính phủ, khi đồng loạt cho tăng giá nhiều thứ quá”.

Còn Phó chủ tịch Quốc hội Huỳnh Ngọc Sơn thì gay gắt nói: “Các năm trước tháng 4 lạm phát thấp nhất, năm nay lại cao nhất. Trong báo cáo mình cứ nói là bạn bè quốc tế, cộng đồng doanh nghiệp đánh giá cao công tác chỉ đạo, điều hành, nhưng về tiếp xúc cử tri, ai người ta cũng nói là điều hành thế nào mà giá cả tăng cao quá”.

Thực tế thì trong quá khứ, không phải Chính phủ chưa từng đề cập đến việc lạm phát lên cao do nguyên nhân từ phía điều hành. Như đánh giá về tình hình lạm phát của năm 2007, trong kỳ họp thứ 3, Quốc hội khoá XII diễn ra vào tháng 6/2008, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Võ Hồng Phúc nhận định: “Chúng ta buông lỏng và sơ hở trong việc theo dõi diễn biến của lạm phát, điều hành không ra sao, phối hợp không nhịp nhàng”.

Phân tích về sự sơ hở, buông lỏng này, Bộ trưởng Võ Hồng Phúc khi đó nói: “CPI của 7 tháng đầu năm 2007 ở mức 6,19%. Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Kế hoạch đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Công Thương, Ngân hàng Nhà nước, phối hợp với nhau để làm ráo riết vấn đề chống lạm phát ngay từ tháng 8 năm 2007. Nhờ vậy tháng 8, tháng 9 CPI đã giảm còn 1,1% trong hai tháng, bình quân một tháng chỉ còn 0,5%, một sự điều hành rất ấn tượng. Nhưng sau đó, chúng ta sơ xuất khi không tiếp tục phối hợp giữa các bộ, các ngành nữa nên CPI lại bị vọt lên”.

Không biết có phải từ câu chuyện lạm phát tăng cao do sự phối hợp không tốt giữa các bộ ngành này, mà vị ủy viên Ủy ban Kinh tế nói trên có sự kết nối từ việc giảm lạm phát đến việc hoàn thiện bộ máy Chính phủ vào tháng 7 hay không? Hoặc, đó có thể chỉ là sự tình cờ thôi khi ông cho rằng kiên nhẫn chờ đợi lạm phát sẽ giảm từ tháng 7.

Háo hức với bộ máy mới của Chính phủ có lẽ cũng là tâm trạng chung của nhiều người, chứ không phải chỉ của riêng ông, nhất là khi bộ máy mới này theo dự kiến là “rất mới”, khi có tới khoảng 12/27 thành viên Chính phủ đã đến tuổi nghỉ hưu và chuẩn bị chuyển công tác khác
.

baomoi.com
















NHỮNG LỢI THẾ CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG



So với các loại hình doanh nghiệp khác hiện nay ở nước ta, thì loại hình doanh nghiệp là công ty cổ phần (hình thức pháp lý liên kết các nhà đầu tư, các chủ thể kinh doanh cùng nhau hùn vốn để thành lập và tổ chức vận hành công ty theo những mục đích nhất định) có nhiều lợi thế hơn hẳn. Lợi thế hơn hẳn đó xuất phát từ những lợi ích và đặc điểm pháp lý mà pháp luật qui định và được thể hiện ở những khía cạnh sau:



- Công ty cổ phần là tổ chức có tư cách pháp nhân độc lập


Pháp luật về công ty của các nước đều xác lập một cách cụ thể về các quyền và nghĩa vụ pháp lý của công ty cổ phần với tư cách là một pháp nhân độc lập, có năng lực và tư cách chủ thể riêng, tồn tại độc lập và tách biệt với các cổ đông trong công ty. Trong quá trình hoạt động, công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty bằng chính tài sản của mình; với tư cách chủ thể là pháp nhân thông qua người đại diện của mình theo qui định của pháp luật, công ty có thể trở thành nguyên đơn hoặc bị đơn dân sự trong các quan hệ tranh tụng tại tòa án. Khi công ty mua sắm các tài sản mới, thì tài sản đó thuộc sở hữu của công ty chứ không thuộc sở hữu của các cổ đông công ty vì lúc này công ty cổ phần là một pháp nhân, tách biệt hoàn toàn với các cổ đông. Trong trường hợp này, cổ đông không được xem tài sản mà công ty mới mua sắm là tài sản của cá nhân mình; mặc dù trên thực tế cổ đông là chủ sở hữu một số quyền lợi có giá trị của công ty cổ phần như:quyền tham gia quản lý, điều hành công ty theo qui định, quyền được chia cổ tức, quyền được chia tài sản theo tỷ lệ cổ phần sở hữu khi công ty giải thể … Tuy nhiên, với tư cách là một pháp nhân, công ty có quyền sở hữu tài sản riêng còn các cổ đông chỉ được sở hữu cổ phần trong công ty mà không có bất kỳ quyền sở hữu nào đối với tài sản của công ty.

- Các cổ đông trong công ty cổ phần chịu trách nhiệm hữu hạn


Khi một tổ chức hay cá nhân mua cổ phiếu của công ty cổ phần tức là họ đã chuyển dịch vốn của mình theo những phương thức nhất định vào công ty cổ phần và trở thành tài sản thuộc sở hữu của công ty cổ phần, nhưng cổ đông vẫn được hưởng các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ việc góp vốn. Với tư cách là một pháp nhân, công ty có năng lực pháp luật độc lập, có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình theo qui định của pháp luật nên các quyền và nghĩa vụ của công ty hoàn toàn tách biệt khỏi các quyền và nghĩa vụ của cổ đông vì công ty là chủ thể của quyền sở hữu công ty. Vốn thuộc sở hữu công ty chính là giới hạn sự rủi ro tài chính của các cổ đông trên toàn bộ số vốn đã đầu tư vào công ty, nên trách nhiệm của những cổ đông đối với các nghĩa vụ của công ty được hạn chế trong phạm vi mà họ đã đầu tư vào cổ phiếu của mình. Xét về phương diện sự tách bạch về tài sản thì các cổ đông không có quyền đối với tài sản của công ty cổ phần nên họ không chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của công ty cổ phần; công ty cổ phần chịu trách nhiệm bằng chính tài sản của mình. Cả công ty cổ phần lẫn chủ nợ của công ty đều không có quyền kiện đòi tài sản của cổ đông trừ trường hợp cổ đông nợ công ty do chưa đóng đủ tiền góp vốn hoặc chưa thanh toán đủ cho công ty cổ phần số tiền mua cổ phiếu phát hành. Đây là điểm khác nhau cơ bản về trách nhiệm của các chủ thể kinh doanh, đối với công ty hợp danh hay doanh nghiệp tư nhân (theo pháp luật Việt Nam) và đối với công ty đối nhân hay doanh nghiệp một chủ của hầu hết các nước thì các thành viên hợp danh (hay thành viên nhận vốn) và chủ doanh nghiệp sẽ chịu trách nhiệm cá nhân vô hạn về các nghĩa vụ của công ty hay của doanh nghiệp bằng tài sản của mình, bất kể tài sản đó có liên quan đến hoạt động kinh doanh hay không.
Như vậy, xuất phát từ sự tồn tại độc lập của công ty cổ phần so với các cổ đông nên công ty cổ phần có các quyền và nghĩa vụ về tài sản riêng, do đó các rủi ro của cổ đông khi đầu tư vào công ty cổ phần chỉ giới hạn trong số lượng giá trị cổ phiếu mà cổ đông đó đầu tư. Ngược lại, khi đầu tư vào công ty hợp danh hay doanh nghiệp tư nhân thì mức độ rủi ro là vô hạn. Tính chất chịu trách nhiệm hữu hạn trên đã thu hút mạnh mẽ các nhà đầu tư đầu tư vào công ty cổ phần nhiều hơn so với đầu tư vào các loại hình doanh nghiệp khác mà ở đó họ phải chịu trách nhiệm vô hạn. Bất kỳ nhà đầu tư nào cũng hiểu rằng khi mình đầu tư vào công ty cổ phần với tính chất chịu trách nhiệm hữu hạn của cổ đông thì không bao giờ mình bị mất nhiều hơn so với số vốn đã bỏ ra đầu tư vào công ty cổ phần nên họ ít sợ rủi ro hơn người đầu tư vốn vào công ty hợp danh hay doanh nghiệp tư nhân, những người này phải thấp thỏm lo âu khi tình hình kinh doanh của doanh nghiệp xấu đi, vì họ có thể mất toàn bộ tài sản bất kỳ khi nào. Chính lợi thế này mà các công ty cổ phần có khả năng huy động rất lớn các nguồn vốn đầu tư của xã hội vào hoạt động sản xuất – kinh doanh của mình .

- Việc chuyển nhượng các phần vốn góp được thực hiện một cách tự do


Hầu hết pháp luật về công ty của các nước trên thế giới đều qui định và cho phép chuyển nhượng một cách dễ dàng và tự do các loại cổ phiếu do công ty cổ phần phát hành từ cổ đông sang chủ sở hữu mới. Vì khác với các loại công ty khác, vốn điều lệ của công ty cổ phần được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị của mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phiếu. Việc góp vốn vào công ty cổ phần được thực hiện bằng cách mua cổ phiếu nên cổ phiếu được xem là hình thức thể hiện phần vốn góp của các cổ đông. Các cổ phiếu do công ty cổ phần phát hành là hàng hóa nên các cổ đông khi sở hữu cổ phiếu có thể tự do chuyển nhượng; hơn thế nữa trách nhiệm của các cổ đông chỉ giới hạn trong phạm vi giá trị các cổ phiếu mà họ sở hữu nên khi họ muốn rút lui khỏi công việc kinh doanh hay muốn bán cổ phiếu của mình cho người khác thì họ thực hiện rất dễ dàng. Trong khi đó đối với công ty trách nhiệm hữu hạn theo qui định của pháp luật Việt Nam thì khi chuyển nhượng các phần vốn góp của mình, thành viên đó phải chuyển nhượng trước hết cho các thành viên còn lại trong công ty hoặc chỉ được chuyển nhượng cho người không phải là thành viên công ty trong trường hợp các thành viên còn lại không mua hoặc không mua hết. Đó là lý do giải thích vì sao có rất nhiều người muốn đầu tư vào công ty cổ phần chứ không muốn đầu tư vào các loại hình doanh nghiệp khác. Đây cũng là một trong những yếu tố cần thiết cho việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán.

- Công ty cổ phần có cấu trúc vốn và tài chính linh hoạt


Công ty cổ phần không thể được thành lập và hoạt động nếu không có vốn. Vốn là yếu tố quyết định và chi phối toàn bộ hoạt động, quan hệ nội bộ cũng như quan hệ với các đối tác bên ngoài. Trong quan hệ nội bộ, vốn của công ty được xem là cội nguồn của quyền lực. Với đặc trưng là loại hình công ty đối vốn, quyền lực trong công ty cổ phần sẽ thuộc về những ai nắm giữ phần lớn số vốn trong công ty. Trong quan hệ với bên ngoài, vốn của công ty cổ phần là một dấu hiệu chỉ rõ thực lực tài chính của công ty. Tuy nhiên, khác với nhiều yếu tố khác, vốn trong công ty cổ phần là yếu tố năng động nhất. Các qui luật kinh tế thị trường chỉ ra rằng cùng với sự lưu thông hàng hóa là sự lưu thông tiền tệ, tức là sự chu chuyển các nguồn vốn. Sự phát triển của công ty cổ phần tỷ lệ thuận với sự luân chuyển các nguồn vốn trong nền kinh tế. Sự vận động của vốn trong công ty cổ phần vừa chịu sự chi phối khách quan của các qui luật kinh tế, vừa bị ảnh hưởng bởi ý chí chủ quan của con người. Điều này đặt ra một đòi hỏi là con người phải tạo ra cách thức góp vốn, cách tổ chức và quản lý vốn để có thể đáp ứng được sự vận động linh hoạt của vốn. Sự linh hoạt trong vận động của vốn vừa phải thích ứng với yêu cầu đòi hỏi đa dạng của nhà đầu tư, vừa không mất đi bản chất vốn có của công ty cổ phần. Điều đó có nghĩa là phải tạo cho bản thân công ty cổ phần khả năng chuyển dịch các phần vốn góp một cách dễ dàng song tư cách pháp nhân của công ty không vì sự chuyển nhượng đó mà bị thay đổi.
Theo các qui định của Luật Doanh nghiệp thì công ty cổ phần ở Việt Nam có thể qui định và phát hành nhiều loại cổ phiếu khác nhau như: cổ phiếu phổ thông, cổ phiếu ưu đãi (trong cổ phiếu ưu đãi có: cổ phiếu ưu đãi biểu quyết, cổ phiếu ưu đãi cổ tức, cổ phiếu ưu đãi hoàn lại và các loại cổ phiếu ưu đãi khác…) và các loại trái phiếu. Đây sẽ là những loại chứng khoán được phát hành rộng rãi ra công chúng nhằm tăng khả năng thu hút vốn đầu tư cho kinh doanh của công ty. Ngoài ra, khi xây dựng giá trị các cổ phiếu của công ty thì các công ty thường xác lập mệnh giá của cổ phiếu thấp đã tạo điều kiện thuận lợi cho những nhà đầu tư dù cho khả năng tài chính không nhiều nhưng vẫn có khả năng tham gia đầu tư vốn vào công ty cổ phần.

- Tính ổn định trong hoạt động kinh doanh và không hạn chế về thời gian tồn tại


Với các loại hình doanh nghiệp tư nhân hay công ty hợp danh, sự tồn tại của các doanh nghiệp này luôn luôn gắn liền với tư cách của chủ sở hữu doanh nghiệp hay các thành viên hợp danh; bởi vì hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp này có thể sẽ bị kết thúc cùng với cái chết, sự rút lui hay sự khánh tận của chủ doanh nghiệp tư nhân hay của một trong các thành viên hợp danh của công ty. Nhưng đối với công ty cổ phần thì hoạt động kinh doanh của công ty hoàn toàn không phụ thuộc vào bất kỳ điều gì có thể xảy ra đối với các cổ đông trong công ty; bởi vì công ty cổ phần có tư cách pháp nhân độc lập nên nếu có bất kỳ sự rút lui, sự phá sản hoặc thậm chí cái chết có xảy ra đối với các cổ đông thì công ty cổ phần vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển mà hoàn toàn không hề bị ảnh hưởng gì. Đây chính là một ưu điểm bảo đảm cho việc kinh doanh của công ty diễn ra một cách liên tục và ổn định. Mặt khác, các luật công ty hiện đại của một số nước đều không hạn chế thời gian tồn tại của công ty cổ phần trừ những trường hợp như: công ty phá sản hoặc các cổ đông cùng thỏa thuận chấm dứt hoạt động hay vì một lý do nào khác mà điều lệ công ty qui định. Chính sự ổn định trong kinh doanh và thời gian hoạt động lâu dài đã tạo cho các công ty cổ phần có được sự thu hút mạnh mẽ và được ưa chuộng hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác .

- Công ty cổ phần có cơ chế quản lý tập trung cao


Với tư cách là một pháp nhân độc lập, trong công ty cổ phần có sự tách biệt giữa quyền sở hữu và cơ chế quản lý. Đó là việc các cổ đông sẽ bầu ra Ban giám đốc và Ban giám đốc sẽ thay mặt các cổ đông quản lý công ty cổ phần. Như vậy, trong công ty cổ phần việc quản lý được tập trung hóa cao vào Ban giám đốc mà không dàn trải đều việc quản lý cho các cổ đông như đối với công ty hợp danh; bởi vì trong công ty hợp danh việc quản lý công ty được thực hiện bởi các thành viên hợp danh với tư cách là những người chịu trách nhiệm vô hạn hoặc liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ trong kinh doanh của công ty nên họ được toàn quyền quản lý công ty và nhân danh công ty trong các hoạt động. Sự tách biệt giữa quyền sở hữu và việc quản lý còn được thể hiện ở việc luật công ty hiện đại của một số nước còn qui định cho phép giám đốc quản lý công ty có thể không phải là cổ đông của công ty. Giám đốc có thể là người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, là người điều hành các hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty. Rõ ràng việc qui định như vậy một mặt thu hút được những người quản lý chuyên nghiệp được công ty thuê làm công tác quản lý, mặt khác tách biệt vai trò chủ sở hữu với chức năng quản lý đã tạo cho công ty cổ phần có được sự quản lý tập trung cao thông qua cơ chế quản lý hiện đại, lành nghề nên rất phù hợp với điều kiện quản lý các doanh nghiệp có qui mô lớn. Khác với doanh nghiệp tư nhân là việc quản lý mang tính chất nội bộ gia đình, công ty cổ phần có một cơ chế quản lý hợp lý, minh bạch rõ ràng. 
Tóm lại: Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam khi chúng ta chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì việc giải phóng mọi năng lực sản xuất của xã hội theo hướng khai thác các tiềm năng sẵn có về vốn, lao động, trình độ quản lý và các nguồn lực vật chất cần thiết khác cho nhu cầu đầu tư và phát triển của đất nước là một nhân tố quan trọng bảo đảm cho việc thực hiện thành công các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong tiến trình đẩy mạnh việc khai thác các nguồn lực quốc gia, chúng ta không thể không tính đến yếu tố nội lực. Nhìn lại các loại hình doanh nghiệp hiện nay mà pháp luật Việt Nam cho phép thành lập và hoạt động, tuy mỗi loại đều có những điểm mạnh nhất định đòi hỏi các nhà kinh doanh cần nắm bắt để khai thác và vận dụng một cách linh hoạt phù hợp với điều kiện và sở thích của mình.


http://www.vnecon.vn

10 nghịch lý của kinh tế Việt Nam

Kinh tế Việt Nam không bị cuốn vào vòng xoáy của cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế thế giới, tăng trưởng đã thoát đáy vượt dốc đi lên và đang dần phục hồi.

Tuy nhiên xét theo ý nghĩa phát triển (rộng hơn, thực chất hơn so với tăng trưởng), thì kinh tế Việt Nam còn đứng trước nhiều nghịch lý, trong đó có 10 nghịch lý được xét trên các góc độ khác nhau.

Một là, tăng trưởng cao hơn nhưng vẫn tụt hậu, thậm chí còn tụt hậu xa hơn.

Năm 2010 (tạm tính tăng 6,5%), GDP của Việt Nam so với năm 1985 cao gấp gần 5,2 lần (bình quân thời kỳ 1986 - 2010 tăng 6,8%/năm); so với năm 1990 cao gấp trên 2 lần (bình quân thời kỳ 1991- 2010 tăng 7,4%/năm). Đó là những tốc độ tăng khá cao.

GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái bình quân năm 2008 của Việt Nam đạt 1.052 USD (năm 2010 ước tính sẽ đạt khoảng 1.138 USD), thấp xa so với các con số tương ứng của nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á (Singapore 37.597,3 USD, Brunei 35.623 USD, Malaysia 8.209,4 USD, Thái Lan 4.042,8 USD, Indonesia 2.246,5 USD, Philippines 1.847,4 USD).

GDP bình quân đầu người của Việt Nam mới bằng 42,8%, con số tương ứng của khu vực Đông Nam Á và đứng thứ 7/11 nước; bằng 26% con số tương ứng của châu Á và đứng thứ 36/50 nước và vùng lãnh thổ có số liệu so sánh; bằng 11,7% con số tương ứng của thế giới và đứng thứ 138/182 nước và vùng lãnh thổ có số liệu so sánh.

Nếu họ “đứng yên” thì cũng phải nhiều năm sau Việt Nam mới bằng mức hiện nay của họ. Nhưng đó chỉ là giả thiết, thực tế họ vẫn tiến, thậm chí có nước, có năm còn tiến nhanh hơn.

Từ các con số trên, có thể rút ra hai nhận xét đáng lưu ý. Một, thứ bậc về GDP bình quân đầu người của Việt Nam vẫn nằm ở nửa dưới trong các nước ở khu vực Đông Nam Á, ở châu Á và trên thế giới. Hai, do giá trị của 1% tăng lên của GDP bình quân đầu người của Việt Nam còn thấp như trên, nên tốc độ tăng chỉ tiêu này của Việt Nam phải cao gấp đôi tốc độ tăng của khu vực Đông Nam Á, cao gấp trên 4 lần tốc độ tăng của châu Á và cao gấp 9 lần tốc độ tăng trung bình của thế giới thì mới không bị tụt hậu xa hơn (chênh lệch tuyệt đối giảm).

Hai là, tăng trưởng liên tục trong thời gian dài, nhưng vẫn chưa được coi là phát triển bền vững.

Tăng trưởng kinh tế sau khi bị giảm trong năm 1979 và năm 1980, thì từ năm 1981 đã tăng trưởng liên tục, tính đến năm 2010 này là 30 năm, vượt kỷ lục cũ của Hàn Quốc (23 năm tính đến năm 1996) và hiện chỉ thấp hơn kỷ lục 32 năm hiện do Trung Quốc đang nắm giữ.

Tăng trưởng liên tục trong 30 năm với tốc độ tăng 6,73%/năm, nhưng vẫn chưa được coi là phát triển bền vững, bởi chất lượng tăng trưởng kinh tế còn thấp, về mặt xã hội còn nhiều vấn đề bức xúc, việc bảo vệ và cải thiện môi trường còn nhiều hạn chế.

Tăng trưởng kinh tế chủ yếu do sự đóng góp của yếu tố tăng vốn (chiếm khoảng 52 - 53%); do sự đóng góp của yếu tố tăng số lượng lao động (chiếm khoảng 19 - 20%); còn yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp (gồm hiệu quả sử dụng vốn, năng suất lao động trên cơ sở khoa học - công nghệ) mới chiếm 28 - 29%, thấp xa so với con số 35 - 40% của một số nước trong khu vực.

Kinh nghiệm trong lịch sử và kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, mục tiêu cuối cùng đạt được không phải chỉ bằng tốc độ tăng trưởng cao trong ngày hôm nay, mà phải bằng độ bền của tốc độ tăng trưởng trong dài hạn. Đã đến lúc, nếu không nâng cao chất lượng tăng trưởng, phát triển bền vững, thì ngay cả việc tăng trưởng với tốc độ cũ cũng khó mà đạt được.

Ba là, mở cửa hội nhập để đẩy mạnh xuất khẩu, nhưng nhập siêu liên tục với quy mô lớn.

Nhập siêu của Việt Nam có năm điểm đáng lưu ý. Một, nhập siêu gần như liên tục, trong thời gian dài. Trong 25 năm đổi mới, chỉ có một năm xuất siêu nhẹ (41 triệu USD) và cách đây cũng đã khá lâu (năm 1992), còn có tới 24 năm nhập siêu. Hai, mức nhập siêu khá lớn (năm 2008 lên đến trên 18 tỷ USD và 4 năm nay, nếu tính bằng tỷ USD đã ở mức hai chữ số); tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu, so với GDP vượt mức an toàn (trên 20%).

Ba, mở cửa, hội nhập là để tìm thị trường tiêu thụ, nhưng gần như càng mở cửa, hội nhập thì càng nhập siêu. Đặc biệt nhập siêu lại bùng lên khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Bốn, nhập siêu thường kèm theo là giá giảm, người tiêu dùng được hưởng lợi, nhưng trong khi sản xuất trong nước thì bị cạnh tranh, giảm thị phần, còn người tiêu dùng vẫn phải mua giá cao. Điểm thứ năm, nhập siêu không phải từ thị trường có hàng kỹ thuật cao, có công nghệ nguồn, mà lại từ các thị trường không phải có kỹ thuật cao, có công nghệ nguồn - đặc biệt là từ thị trường Trung Quốc.

Bốn là, chuyển sang kinh tế thị trường đã nhiều năm, nhưng thể chế chuyển chậm.

“Bàn tay hữu hình” còn quá dài, trong khi “bàn tay vô hình” còn quá ngắn. Doanh nghiệp nhà nước giảm về số lượng, nhưng phình to về quy mô, chiếm tỷ trọng lớn về vốn, chiếm tỷ trọng nhỏ về lao động; doanh nghiệp tư nhân ra đời nhiều, giải quyết được nhiều công ăn việc làm, nhưng quy mô nhỏ, chậm lớn. Cải cách hành chính chậm, thủ tục hành chính còn nặng nề. Chi phí bất hợp lý, thậm chí bất hợp pháp còn nhiều. Cạnh tranh chưa bình đẳng, “ra sân chơi chung, nhưng đã chấm trước người thắng kẻ thua”. Kinh tế thị trường nhưng độc quyền còn lớn.

Năm là, chuyển sang công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã trên 15 năm, nhưng tính gia công còn nặng. Do gia công nặng, nên vừa làm cho giá trị tăng thêm thấp, vừa phụ thuộc vào nước ngoài, làm tăng nhập siêu, dễ bị ảnh hưởng khi thị trường nước ngoài gặp bất ổn.

Sáu là, “tam nông” rất quan trọng, nhưng chưa được quan tâm tương xứng.

Việt Nam xuất phát từ nông nghiệp đi lên; tỷ lệ dân số nông thôn từ trên 90% trước Cách mạng đã giảm xuống nhưng hiện vẫn còn chiếm 70%; tam nông đã đóng góp tích cực trong việc giúp cho đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội tiềm ẩn từ cuối những năm 70, bùng phát trong thập kỷ 80, kéo dài tới đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước; giúp ổn định ở trong nước để ứng phó với cuộc khủng hoảng khu vực những năm 1997 - 1998, cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới 2008- 2009,... nhưng tỷ trọng vốn đầu tư cho nông, lâm - thủy sản trong tổng vốn đầu tư phát triển xã hội giảm và hiện ở mức thấp (năm 2000 chiếm 13,8%, năm 2005 còn 7,5%, năm 2009 còn 6,3%).

Diện tích đất nông nghiệp, đặc biệt đất trồng lúa giảm. Chênh lệch giữa thành thị và nông thôn còn lớn cả về thu nhập, chi tiêu, nhà ở, điện nước, vệ sinh, đồ dùng lâu bền... còn lớn. Tỷ lệ nghèo ở nông thôn cao gấp đôi ở thành thị, số người nghèo ở nông thôn chiếm trên dưới 90% tổng số hộ nghèo của cả nước...

Bảy là, với mục tiêu tăng trưởng cao, Việt Nam đã kích cầu đầu tư lớn (có tỷ lệ đầu tư so với GDP đứng hàng đầu thế giới), nhưng lãi suất vay vốn ở Việt Nam cũng thuộc loại cao so với các nước và vùng lãnh thổ. Thu nhập và sức mua có khả năng thanh toán của dân cư còn thấp do thu nhập của lao động thấp; nhưng khi kích cầu đầu tư và tiêu dùng thì có một phần không nhỏ hàng hóa, vật tư của nước ngoài nhập siêu vào chiếm lĩnh thị phần.

Tám là, tỷ lệ tiết kiệm, tỷ lệ động viên tài chính cao, nhưng tỷ lệ bội chi ngân sách lớn và tăng.

Tỷ lệ tích lũy so với GDP của Việt Nam đã tăng khá nhanh (từ 27,1% năm 1995 lên 29,6% năm 2000, lên 35,6% năm 2005, lên 43,1% năm 2007, vài năm có giảm xuống nhưng năm 2009 vẫn ở mức 38,1%, thuộc loại cao trên thế giới.

Tỷ lệ tổng thu ngân sách so với GDP của Việt Nam tăng và thuộc loại cao (nếu năm 2000 mới đạt 20,5% thì năm 2005 đã đạt 27,2%, năm 2008 là 28,1%), nhưng tỷ lệ bội chi so với GDP tăng lên (từ 4,1% năm 2000 lên 5,2% năm 2008, lên 6,9% năm 2009 và năm 2010 có thể giảm xuống nhưng vẫn ở mức cao trên 6%). Đây là một trong những yếu tố làm bất ổn vĩ mô, yếu tố tiềm ẩn của lạm phát.

Chín là, khoa học - công nghệ là động lực của tăng trưởng, là yếu tố để nâng cao chất lượng tăng trưởng, nhưng tác động đối với nền kinh tế còn thấp.

Tỷ trọng hoạt động khoa học- công nghệ trong GDP nhiều năm nay chỉ chiếm 0,62-0,63%, tác động đối với tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế nhỏ. Tình hình này do nhiều nguyên nhân. Có nguyên nhân do đầu tư chưa đủ độ (năm 2009 đã tăng lên nhưng cũng chỉ chiếm 0,73% tổng vốn đầu tư toàn xã hội). Có nguyên nhân do cơ chế vận hành hoạt động này chậm được chuyển đổi, khi có cơ chế thì thực hiện còn lúng túng. Có nguyên nhân do hoạt động khoa học- công nghệ và hoạt động sản xuất kinh doanh chưa có sự kết hợp chặt chẽ. Thị trường khoa học công nghệ chậm hình thành và chậm phát triển.

Mười là, giáo dục được coi như quốc sách hàng đầu, nhưng còn nhiều hạn chế, bất cập.

Nếu khoa học - công nghệ là động lực của phát triển, thì giáo dục - đào tạo là chìa khóa của khoa học - công nghệ. Giáo dục - đào tạo sớm được xác định là quốc sách hàng đầu, với tỷ trọng chi cho giáo dục - đào tạo trong tổng chi ngân sách tăng. Ngành giáo dục - đào tạo liên tục cải cách, nhưng hiệu quả thấp...


( Dương Ngọc trên trang báo của VnEconomy)

Tuesday, March 27, 2012

Bài học rút ra từ 25 năm làm doanh nhân



Rhonda Abrams, chuyên gia tư vấn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời cũng là một trong những cây bút được ưa thích nhất trên tạp chí kinh tế “The INC” và tại Mĩ, đã nêu lên một số suy nghĩ thú vị của bà về những bài học rút ra trên thương trường cho các doanh nhân vừa và nhỏ.

"25 năm trước đây, tôi nói lời tạm biệt với ông chủ cuối cùng của mình và đứng ra thành lập doanh nghiệp nhỏ đầu tiên cho bản thân. Trong vòng 25 năm qua, tôi đã làm chủ 4 doanh nghịêp, trải qua bao thăng trầm, từ kinh tế thăng hoa đến thời khủng hoảng. Tôi đã thuê nhân công và thuê nhân công. Tôi đã huy động vốn, vay mượn ngân hàng, đầu tư các khoản tiền tiết kiệm của bản thân. Tôi đã đối mặt với bao nhiêu thử thách, cũng có lúc cảm thấy mệt mỏi và đau đầu. Nhưng thú thực là tôi yêu sự lựa chọn của mình, mặc dù con đường kinh doanh không chỉ rải đầy hoa hồng mà cũng lắm chông gai. Tôi muốn chia sẻ cùng các bạn những bài học rút ra được từ quãng đường dài làm việc không mệt mỏi đó."

Hãy linh hoạt và chuẩn bị sẵn sàng cho những thay đổi. Các doanh nhân thành đạt đều hiểu rằng sự thay đổi sẽ diễn ra cho dù bạn có muốn hay không. Vì vậy, hãy đưa điều này vào kế hoạch kinh doanh và tầm nhìn vĩ mô của bạn. Tôi đã đầu tư lại nhiều lần, tuy nhiên lúc nào cũng tập trung vào thế mạnh cạnh tranh của bản thân - đưa ra tư vấn về kinh doanh cho các khách hàng.

Hãy lạc quan. Thái độ của bạn thực sự sẽ ảnh hưởng đến khả năng phản ứng với các cơ hội và thách thức. Thái độ đó cũng ảnh hưởng đến các nhân viên dưới quyền bạn. Vì vậy, mặc dù có những lúc gặp phải khó khăn, bạn hãy tìm ra các phương pháp tốt nhất để vượt qua gian khó.

Đối xử tốt với nhân viên dưới quyền. Nhân viên chính là công ty của bạn, đặc biệt đối với các doanh nghịêp nhỏ. Hãy tuyển dụng nhân tài và trả công xứng đáng; đối xử với nhân viên trân trọng và giao quyền cho họ làm việc.

Đừng quá phụ thuộc vào một khách hàng, một kênh phân phối, hoặc một sản phẩm nào. Năm 2007, nhà phân phối chủ chốt của tôi phá sản. Thật may, trước đó vài năm, tôi đã có dự cảm không tốt khi hầu hết thu nhập của mình đến từ kênh này, nên tôi đã đa dạng hoá. Và tôi đã sống sót được nhờ chiến lược đa dạng hoá này.

Nói chuyện với các nhà cung cấp. Các nhà cung cấp có thể là đối tác giúp doanh nghiệp của bạn tăng trưởng, chào giá rẻ hơn, gia hạn những điều khoản có lợi, giúp phát triển sản phẩm mới, nhưng chỉ khi bạn thực sự chiếm được lòng tin của họ. Đừng bao giờ tránh những cuộc điện thoại chỉ vì bạn còn nợ tiền họ nhé.

Làm theo cách của bạn. Bạn nên nhớ mình khởi nghịêp kinh doanh là để có quyền tự chủ nhiều hơn, vì vậy, hãy đảm bảo là bạn không nhắm mắt nghe theo tư vấn của ai đó về cách điều hành doanh nghiệp của mình.

Giảm bớt thời gian đi lại. Trong vòng 24 năm qua, tôi thường làm việc tại nhà hoặc đi bộ đến nơi làm việc, điều này có nghĩa là tôi đã tiết kiệm được hơn 100 ngày sử dụng vào việc đi lại. Nhờ vậy, tôi có thêm thời gian làm vịêc vào ban đêm và những ngày nghỉ cuối tuần.

Mọi việc đều phải có chứng từ sổ sách. Hãy tin tôi đi, tôi đã làm hàng tấn công việc mà chẳng có giấy tờ gì, nhưng tôi cũng chứng kiến các khách hàng của tôi quay ngoắt 180 độ nếu vịêc kinh doanh xấu đi. Vậy nên hãy nhớ là nếu có công việc quan trọng nào, cần phải có giấy tờ sổ sách ghi lại thật rõ ràng với đầy đủ chữ kí của các bên liên quan để khi cần thiết, các luật sư có thể làm việc với các bên liên quan và bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp của bạn.

Lập sổ tiết kiệm riêng và một tài khoản cho nghỉ hưu. Giống như đa số các doanh nhân, tôi bỏ từng đồng đô la kiếm được vào kinh doanh, nhưng nếu sự cố bất ngờ xảy ra, tôi có thể sẽ trắng tay, vì vậy đừng bỏ hết tiền vào doanh nghiệp của bạn nhé, hãy để dành quỹ để phòng thân.

Duy trì mối quan hệ tốt với ngân hàng. Hãy nuôi dưỡng mối quan hệ này. Hãy làm quen với ngân hàng của bạn, mời họ đi ăn trưa hoặc tối. Cho họ biết các kế hoạch kinh doanh của bạn. Ngân hàng đối tác của tôi đã cứu tôi ít nhất là một lần.

Xây dựng kế hoạch kinh doanh. Thú thực, xây dựng kế hoạch kinh doanh hàng năm là một trong số những nguyên nhân quan trọng nhất giúp doanh nghiệp của tôi vẫn ăn nên làm ra, nhờ vậy tôi vẫn hạnh phúc và thành công trong 25 năm qua.

"Trong 25 năm qua, tôi yêu những thách thức và trưởng thành mà mình đã trải qua để điều hành doanh nghiệp của riêng mình. Mặc dù không phải là một đoạn đường trải đầy hoa hồng, nhưng ít nhất tôi luôn đứng ở vị trí cầm tay lái. Tôi thấy thực sự thích thú khi đã dành phần lớn thời gian trong cuộc đời mình để làm một doanh nhân. Tôi chỉ có thể chia sẻ với bạn rằng đó là một điều kỳ diệu và sẽ còn nhiều điều kỳ diệu hơn ở phía trước đang chờ đợi bạn nữa đấy."



USAnews

© VnEcon.vn



Saturday, March 24, 2012

Đào tạo kinh tế: Toàn cầu hóa nhiều hơn, Mỹ hóa ít hơn

Tác giả: NGUYỄN TUYẾN (THEO THE ECONOMIST)

http://vef.vn

Các trường kinh tế tự hào rằng việc sinh viên đến từ các nước khác nhau học chung với nhau sẽ buộc họ phải mở rộng tầm nhìn và kiểm định giả định của họ. Nhưng thực tế, họ đã thổi phồng mọi việc: đa dạng hóa giọng nói và màu da không nhất nhiết có nghĩa là đa dạng hóa thế giới quan.


Toàn cầu hóa từ đầu vào

Các doanh nhân thích buộc tội các viện kinh tế là chỉ được cái giỏi bốc phét. Nhưng khi toàn cầu hóa, các giáo sư đã có bắt đầu thực tế hơn nhiều.

Trong thập kỷ vừa qua, đào tạo kinh tế đã toàn cầu hóa toàn diện hơn bản thân kinh doanh. Điều này không chỉ có ý nghĩa với quyền lợi riêng của chính nó (các trường kinh tế là những doanh nghiệp lớn và là nền tảng đào tạo tầng lớp cấp cao toàn cầu). Nó cũng có ý nghĩa bởi vì phần còn lại của giới học viện rất có thể theo sau nơi các trường kinh tế đã dẫn đầu.

Một số trường kinh tế đã xây dựng khuôn viên trường tại phía bên kia thế giới. INSEAD, một trường của Pháp, dẫn đầu trào lưu này. Năm 2000, trường này khai trương một cơ sở xa hoa tại Singapore với các khoa đào tạo chính quy. Sinh viên có thể học MBA ngay tại Singapore hoặc Pháp và chuyển đổi giữa hai nước.

Khoảng 35-40% sinh viên là những "swithcers" (những người bắt đầu học tại một cơ sở và hoàn thành tại cơ sở khác), rất ít người là những "swinger" (những người dành hẳn một khoảng thời gian chỉ học ở một nước). Những trường lớn khác như trường Wharton thuộc Đại học Pennsylvania và trường Booth thuộc Đại học Chicago đã thành lập cơ sở tại nước ngoài cho các chương trình MBA dành cho các Giám đốc điều hành.

Các trường thiếu tiền hoặc không đủ danh tiếng muốn lập cơ sở tại nước ngoài có những sự lựa chọn khác. Rất nhiều trường kết nối với các đối tác nước ngoài. Trường Kinh doanh Quốc tế Châu Âu Trung Quốc (CEIBS) tại Thượng Hải hợp tác với trường Kinh tế Harvard và Wharton để giảng dạy chương trình MBA cho Giám đốc điều hành. Các trường cũng đưa ra "yêu cầu kinh nghiệm toàn cầu". Trường Kinh tế Ross thuộc trường Đại học Michigan yêu cầu các sinh viên MBA năm đầu phải dành bảy tuần làm việc ở nước ngoài.

Các trường học tốt nhất thế giới cũng đang toàn cầu hóa đầu vào. Năm 2008, khoảng 34% sinh viên trong 55 chương trình MBA hàng đầu của Mỹ (được xếp hạng bởi Financial Times) là sinh viên nước ngoài và 85% thuộc top 55 khóa học hàng đầu tại các nước châu Âu (con số giảng viên nước ngoài là 26% với Mỹ và 46% với châu Âu). Các tổ chức ít học viên nước ngoài hơn cũng đang quốc tế hóa. Viện thống kê UNESCO tính toán rằng trong năm 2007, gần một phần tư số sinh viên học tập tại nước ngoài đều theo học ngành kinh doanh - nhiều hơn hẳn so với bất kỳ ngành học nào khác.








Đồng thời, các nền kinh tế mới nổi đang xây dựng các trường kinh tế với tốc độ nhanh chóng. Hiệp hội các trường kinh tế tiên tiến tính được có hơn 13.000 trường cấp bằng kinh doanh trên thế giới. Trung Quốc và Ấn Độ có 2.700 trường với nhau, hầu hết trong số đó được thành lập từ năm 1990. Vào năm 1997, các trường đại học đưa ra 74 khóa học kinh tế mới, vào năm 2007 họ thành lập 641 khóa. Các trường học trên thị trường mới nổi tốt nhất quyết tâm đi ra toàn cầu (hoặc ít nhất trong khu vực) vì quyền lợi của chính mình: CEIBS đã tăng lượng sinh viên nước ngoài từ 10% năm 2002 tới 40% năm 2009 và hy vọng sẽ tạo được một Ivy League cho phương Đông.

Sự toàn cầu hóa đột ngột của giáo dục kinh doanh có những nhược điểm. Nhược điểm rõ ràng nhất là kiểm soát chất lượng . Toàn cầu hóa cũng đẩy các chi phí vốn đã cắt cổ của việc đào tạo kinh tế lên cao. Gửi sinh viên ra ngước ngoài, tiến hành các nghiên cứu quốc tế và cạnh tranh với các học viện tốt nhất trên thị trường lao động không biên giới là tốn kém. Tồi tệ nhất, toàn cầu hóa, biệt ngữ quản lý nghĩa là từ "tư duy 360 độ" đến "nấc thang chiến lược", lan rộng qua các biên giới như dịch cúm gia cầm.

Toàn cầu nhiều hơn, Mỹ hóa ít hơn

Các trường kinh tế tự hào rằng việc sinh viên đến từ các nước khác nhau học chung với nhau sẽ buộc họ phải mở rộng tầm nhìn và kiểm định giả định của họ. Nhưng thực tế, họ đã thổi phồng mọi việc: đa dạng hóa giọng nói và màu da không nhất nhiết có nghĩa là đa dạng hóa thế giới quan. Cho dù họ đến từ đâu, các sinh viên MBA toàn cầu có xu hướng trở thành công dân quốc tế nói nhiều thứ tiếng. Hòa nhập với những công dân quốc tế khác trên nhiều châu lục có thể đánh lừa họ với suy nghĩ rằng thế giới bao gồm phần lớn những người như họ, trong khế giới không hề như vậy.

Tuy nhiên, lợi ích của đào tạo kinh tế toàn cầu vượt xa những nhược điểm đó.

Kinh doanh đang toàn cầu hóa: tỷ lệ các công ty trong số 500 công ty lớn nhất thế giới xuất phát từ các thị trường mới nổi đã gấp đôi trong vòng 5 năm, từ 8,2% trong năm 2005 đến 17,4% trong năm 2010. Các trường kinh doanh không có lựa chọn nào khác ngoài việc phải thích ứng với xu hướng chung. Các trường tốt nhất đang truyền bá xa và rộng các tiêu chuẩn cao của họ. IESE của Tây Ban Nha đã giúp thành lập các trường kinh tế trên 15 nước khác. CEIBS của Trung Quốc đã thành lập một trường tại Ghana.

Các trường địa phương luôn điều chỉnh chương trình giảng dạy hợp với hoàn cảnh địa phương: Trường quản lý Moscow, Skolkovo đưa ra chương trình MBA lấy trọng tâm là đối phó với tham nhũng. Toàn cầu hóa gia tăng lựa chọn: Singapore chỉ có 4 trường đại học hoàn toàn là địa phương cấp bằng kinh doanh nhưng người Singapore có thể lựa chọn giữa 70 tổ chức quốc tế cấp bằng thông qua một số hình thức nhượng quyền.

Khi giáo dục kinh doanh trở nên toàn cầu hóa nhiều hơn thì nó cũng ít mang tính chất Mỹ hơn. Mãi đến gần đây, ngành này vẫn bị thống trị bởi các trường kinh tế Mỹ giảng dạy các ví dụ kiểu Mỹ. Hiện tại hơn một phần ba các trường hợp nghiên cứu giảng dạy trong các khóa học chiến lược tại các trường đại học Mỹ là của công ty nước ngoài. Và trong số những người châu Á tham dự cuộc kiểm tra GMAT (các trường Mỹ sử dụng GMAT để lựa chọn sinh viên), tỷ lệ những người sau đó nộp đơn học tại Mỹ giảm từ 85% trong năm 2001 xuống 67% trong năm 2009.

Một giải siêu đấu toàn cầu của các trường kinh doanh đang nổi lên, gồm vài trường ở châu Âu và châu Á cũng như Mỹ. Tất cả đều cạnh tranh khốc liệt để giành sinh viên và nhân viên ở khắp mọi nơi (những người có uy tín bay đến mọi nơi theo chỉ thị của những người trả giá cao nhất). Sự sùng bái MBA đang toàn cầu hóa: các cử nhân tương lai từ Boston đến Bắc Kinh đến Bangalore đang dành những năm đầu định hướng say sưa lắng nghe, cho dù sâu sắc hay không, thuyết quản lý của Pierian.

10 nguyên nhân thất bại của doanh nghiệp nhỏ

Một trong những khía cạnh khó hiểu nhất trong việc khởi nghiệp là tại sao các doanh nghiệp nhỏ lại thất bại. Có một nguyên nhân rất dễ hiểu cho sự mơ hồ này: Phần lớn bằng chứng đều tới từ bản thân người khởi nghiệp.

Tôi đã có một cái nhìn cận cảnh với nhiều thất bại của các doanh nghiệp – trong đó có một số doanh nghiệp là của chính bản thân tôi. Và theo quan sát của tôi, những nguyên nhân thất bại được các chủ doanh nghiệp chỉ ra thường không đi thẳng vào vấn đề, và chúng chỉ có nghĩa khi bạn suy nghĩ về chúng. Nếu các chủ doanh nghiệp thực sự biết họ sai ở đâu, họ đã có thể sửa sai. Thường thì vấn đề chỉ đơn giản do sự phủ nhận hoặc không biết đến những điều bạn không biết.

Trong nhiều trường hợp, khách hàng – mà nói đúng hơn là khách hàng cũ – hiểu vấn đề rõ hơn chủ doanh nghiệp. Các chủ doanh nghiệp thường có xu hướng nghi ngờ và đổ tội lên ngân hàng, chính phủ hay các đối tác kém cỏi. Họ hiếm khi tự chỉ tay vào chính mình. Dĩ nhiên, cũng có những trường hợp mà vấn đề nằm ngoài kiểm soát của chủ doanh nghiệp, nhưng theo tôi thấy thì đó chỉ là số ít. Tiếp theo đây, dựa trên kinh nghiệm và quan sát của tôi, là 10 do khiến các doanh nghiệp nhỏ thất bại. Danh sách này không được mỹ miều gì cho lắm, nó cũng không đơn giản, và không chứa bất cứ mối nghi hoặc thường có nào (biết đâu những mối nghi hoặc này có thể được xếp hạng 11, 12 hay 13).

1. Bài toán không hoạt động. Không có nhiều nhu cầu cho sản phẩm và dịch vụ ở mức giá đủ để mang lại lợi nhuận cho công ty. Ví dụ như việc một công ty mới lập lại đi cố gắng cạnh tranh với Best Buy và tính kinh tế theo quy mô của nó.

2. Chủ doanh nghiệp không thể tìm ra cách riêng cho mình. Có thể họ ngoan cố, ngại rủi ro, sợ mâu thuẫn – và thế có nghĩa là họ cần phải “giống tất cả mọi người” (thậm chí cả những nhân viên hay những người bán rong không được việc). Họ có thể là người theo chủ nghĩa hoàn hảo, tham lam, tự cho mình là đúng, bị hoang tưởng, hay cáu giận và luôn bấp bênh. Đôi khi, thậm chí bạn có thể giải thích vấn đề cho những người này, và họ nhận ra là bạn đúng – nhưng họ sẽ vẫn tiếp tục mắc sai lầm tương tự.

3. Tăng tưởng ngoài kiểm soát. Đây có lẽ là lý do đáng buồn nhất trong mọi lý do thất bại – một doanh nghiệp đang thành công bỗng chốc phá sản chỉ vì quá phát triển. Nguyên nhân gồm có chuyển hướng sang một thị trường kém lợi nhuận hơn, vấp phải sự nhức nhối tăng trưởng hủy hoại doanh nghiệp, hay vay mượn quá nhiều với ý đồ duy trì tỉ lệ tăng trưởng cao. Thế nên, đôi khi chậm hơn lại tốt.

4. Kế toán yếu kém. Bạn không thể kiểm soát được doanh nghiệp nếu bạn không biết chuyện gì đang xảy ra với nó. Với những con số tồi tệ, hoặc chả có con số nào, một công ty sẽ như bị mù đường, và điều này lúc nào cũng xảy ra. Tại sao ư? Vì một lý do, đó là một quan niệm sai phổ biến – và tai hại – rằng một công ty kế toán thuê ngoài vốn dĩ để giải quyết vấn đề thuế má sẽ trông chừng được công ty. Thực ra, đây là việc của giám đốc tài chính, nhưng lại là một trong nhiều chiếc mũ chụp tạm lên đầu chủ doanh nghiệp cho đến khi công ty thuê được đúng người làm việc này.

5. Thiếu tiền mặt dự phòng. Nếu chúng ta có rút ra được bài học nào trong đợt suy thoái này (tôi biết là nó đã qua nhưng khách hàng của tôi hình như chưa nhận ra điều đó), thì đó là doanh nghiệp có chu kì và chuyện không hay sẽ vẫn diễn ra – như là việc mất đi một khách hàng quan trọng hay nhân viên chủ chốt, sự xuất hiện đối thủ cạnh tranh mới, hay một đơn kiện. Những điều này đều có thể gây áp lực lên tài chính công ty. Một khi công ty đã hết tiền (cũng như khả năng vay mượn), nó sẽ không còn khả năng phục hồi.

6. Ngành nghề tầm thường. Tôi chưa từng gặp một chủ doanh nghiệp nào mà lại nói hoạt động của mình là tầm thường. Nhưng tất cả chúng ta không thể cùng đứng trên mức trung bình được. Hầu hết các doanh nghiệp chủ yếu là lặp lại và tham khảo, cũng như mức độ tiếp thị của họ vậy (tùy thuộc vào công việc)

7. Hoạt động thiếu hiệu quả. Trả quá nhiều tiền cho văn phòng, nhân viên và nguyên vật liệu. Giờ đây các công ty nghèo có lợi thế hơn bao giờ hết. Không có các điều khoản đàm phán vững chắc phản ánh tình hình kinh tế hiện nay có thể khiến công ty trở nên thiếu cạnh tranh.

8. Quản trị kém. Thiếu tập trung, tầm nhìn, kế hoạch, tiêu chuẩn hay bất cứ thứ gì khác góp phần làm nên quản trị tốt. Cộng thêm đối tác khiêu khích và họ hàng rầu rĩ vào đống hổ lốn ấy, bạn sẽ thực sự gặp thảm họa.

9. Thiếu kế hoạch liên tục. Chúng ta đang nói về việc gia đình trị, về những tranh đấu quyền lực, về việc những nhân vật chủ chốt bị thay thế bởi những người không đủ năng lực – hay tất cả những lý do khiến một doanh nghiệp gia đình không thể thành công cho đến thế hệ sau.

10. Thị trường xuống dốc. Cửa hàng sách, cửa hàng âm nhạc, doanh nghiệp in ấn và nhiều doanh nghiệp khác đang phải đương đầu với những thay đổi trong công nghệ, nhu cầu khách hàng, và sự cạnh tranh từ các công ty lớn với sức mua lớn hơn và nhiều tiền quảng cáo hơn.

Trong cuộc sống, bạn có thể tha thứ cho bạn bè và họ hàng, nhưng những nhà khởi nghiệp thì hiếm khi tha thứ. Suy cho cùng, mọi thứ đều xuất hiện vấn đề. Nếu mọi người thấy chán, nhân viên sẽ ngừng làm việc cho bạn, và khách hàng thì ngừng giao dịch với bạn. Và đó là lý do tại sao các doanh nghiệp thất bại.

www.saga.vn

Chia sẻ kinh nghiệm tiếp thị số từ món gà rán

Công thức chế biến món gà rán lại ẩn chứa những bí quyết tuyệt vời trong lĩnh vực marketing kỹ thuật số và trong cuộc sống nói chung.


Không chỉ người dân Mỹ mà nhiều người dân tại khắp các nước trên thế giới đều yêu thích món gà rán. Vì thế, công thức chế biến món gà rán đã trở thành một công thức quý trong ẩm thực Mỹ. Nhắc đến món gà rán chúng ta không thể không nhắc đến hình ảnh Đại tá Sander - hình ảnh đại diện cho thương hiệu KFC. Hỏi bất kỳ người yêu thích món gà rán Kentucky nào, bạn sẽ biết rằng công thức nguyên bản của đại tá Sander là một bí quyết được tìm kiếm nhiều nhất kể từ khi công ty được thành lập vào năm 1952 ở bang Louisiana.

Để tự mình có thể chế biến món ăn ưa thích này, tác giả bài viết Zephrin Lasker đã tham dự một lớp học nấu ăn tại Học viện đào tạo nấu ăn tại Manhattan và đã thấy rằng công thức chế biến món gà rán cũng ẩn chứa những bí quyết tuyệt vời trong lĩnh vực marketing kỹ thuật số và trong cuộc sống nói chung.

Càng đơn giản càng tốt

Công thức nấu: món gà rán tuyệt vời được làm từ những nguyên liệu sau: thịt gà, bột mì, sữa nguyên kem, tương ớt, muối, hạt tiêu, bột tỏi và húng tây.

Bí quyết marketing: Các chuyên gia tiếp thị sẽ không thể phá vỡ tất cả các nguyên tắc của chiến dịch quảng cáo kỹ thuật số. Cũng giống như khi làm món gà rán, bạn không thể quá xa rời các nguyên tắc cơ bản tạo nên một chiến dịch marketing kỹ thuật số tốt như:

1. Tìm những người muốn nghe thông tin từ bạn.

2. Gửi cho họ các thông điệp phù hợp qua các kênh ưa thích của họ.

3. Lắng nghe để chiếm được lòng tin của họ.

4. Kết thân với họ.



Trước khi nhúng nguyên liệu vào, hãy kiểm tra dầu ăn

Công thức nấu: Nhúng một miếng thịt gà vào dầu ăn trước khi rán toàn bộ số thịt gà - mỡ phải sôi xèo xèo nhưng không được bốc khói. Nếu nhiệt độ dầu ăn không chuẩn (37 độ 5) thì sẽ không rán được thịt gà. Trong trường hợp xấu hơn, nếu dầu ăn quá nóng, miếng thịt gà sẽ bị khô từ bên trong. Vì những lý do trên, hãy thử và điều chỉnh nhiệt độ dầu ăn nếu cần.

Bí quyết marketing: Kiểm tra các kênh truyền thông trước khi dành toàn bộ ngân sách và đừng rót hàng triệu đô-la vào một kênh trước khi so sánh các kết quả. Bạn cũng nên dành chỗ (và ngân sách) cho sự đổi mới. Ví dụ, năm ngoái Công ty Morgan Stanley - một hãng chuyên cung cấp các dịch vụ tài chính toàn cầu có trụ sở tại New York, Mỹ đã dự đoán rằng doanh số bán điện thoại smartphone sẽ vượt qua doanh số bán điện thoại thường. Vì quá nhiều người quan tâm nên không ngạc nhiên khi qua chiến dịch marketing, điện thoại smartphone đã trở thành mặt hàng "phải mua". Ngân sách dành cho dự án eMarketer để quảng cáo điện thoại smartphone tại Mỹ đã vượt xa con số 1 tỷ USD trong năm nay. Hãng nghiên cứu Borrell Associates cũng dự đoán thị trường quảng cáo ứng dụng điện thoại smartphone sẽ tăng vọt lên mức 8 tỷ USD trong năm 2015. Sự chuyển biến tăng trong thị trường điện thoại smartphone cho thấy bạn cần phải sẵn sàng điều chỉnh kế hoạch marketing kỹ thuật số của mình (ví dụ như cho thêm điện thoại smartphone vào kế hoạch đó).

Chậm mà chắc sẽ dành chiến thắng

Công thức nấu: Món gà rán tuyệt vời sẽ không thể xuất hiện sau một cái búng tay của bạn được. Cần phải có thời gian. Nhiều đầu bếp ướp thịt với sữa nguyên kem rồi để qua đêm trước khi rán để thịt gà vẫn giữ được màu sắc sau khi rán.

Bí quyết marketing: Đừng dành ngân sách marketing của bạn cho các công cụ chỉ cho kết quả nhất thời. Một số nỗ lực marketing của bạn sẽ mất nhiều thời gian để có được kết quả thực sự. Ví dụ, xây dựng một cơ sở dữ liệu email có thể mất đến một năm. Đó là bởi vì nhiều chuyên gia tiếp thị có thể và phải vận hành các chương trình tiếp nối khá phức tạp để gửi email thông báo nơi sẽ trình bày thông điệp với người tiêu dùng - những người đã chấp thuận lắng nghe họ theo nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn, chuyên gia tiếp thị có thể gửi các tin nhắn thích hợp tới mọi người nhân ngày sinh nhật, dịp kỉ niệm ngày cưới của họ hoặc dựa trên các ưu tiên sản phẩm của họ.

Trên tất cả, marketing chính là các mối quan hệ. Và giá trị sau cùng của marketing kỹ thuật số (và cũng là một trong những gì tạo nên sự khác biệt giữa nó và marketing truyền thống) là có thể xây dựng một mối quan hệ với mọi người trên cơ sở sự tin tưởng và sự phù hợp. Để thấy được các kết quả như vậy, quan trọng là bạn phải lập kế hoạch từ trước để kết nối được đúng những người bạn cần và chiếm được lòng tin của họ. Điều đó không phải bỗng dưng mà có.

Đừng làm quá tay

Công thức nấu: Nếu bạn rán thịt gà quá lâu, phần bên ngoài sẽ bị cháy và bên trong sẽ bị khô.

Bí quyết marketing: Trong tiếp thị, ít có thể hóa nhiều vì thế đừng tung mọi thứ trong "tủ lạnh" của bạn "vào" các khách hàng tương lai và các khách hàng hiện tại. Điều này đặc biệt đúng đối với các sáng tạo quảng cáo. Đừng phức tạp hóa các thông điệp và sáng tạo marketing của bạn.

Tập trung vào một hoặc hai ý tưởng và khái niệm chính luôn đúng với doanh nghiệp của bạn và diễn tả chúng thật rõ ràng và trực diện. Và đừng để các thông điệp và sáng tạo quảng cáo của bạn lừa dối mọi người. Cũng giống như khi bạn ngồi xuống bàn ăn để thưởng thức món gà rán, chắc chắn bạn sẽ không muốn ăn thịt lợn. Truyền đạt các đề xuất giá trị của bạn một cách thành thật và gãy gọn. Mọi người sẽ có lý do để gắn bó với nhãn hiệu của bạn.

Theo DĐDN /Forbes

Chuyện gì đang diễn ra với nền kinh tế Mỹ ?

"Triển vọng ngắn hạn cho nền kinh tế Mỹ chắc chắn là yếu. Việc thay đổi các chính sách cơ bản rất có thể phải đợi đến sau cuộc bầu cử quốc hội và tổng thống vào tháng 11 năm 2012.", GS Kinh tế Đại học Harvard Martin Feldstein nhận định.


Martin Feldstein hiện là Giáo sư kinh tế tại Trường Đại học Harvard, là Chủ tịch Hội đồng Cố vấn Kinh tế của Tổng thống Ronald Reagan và là Cựu Chủ tịch Cục Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia.

CPI tăng mạnh

Nền kinh tế Mỹ gần đây đột ngột chậm lại và khả năng xảy ra một cuộc suy thoái kinh tế khác tăng cùng với mỗi lượt dữ liệu mới. Đây là một sự thay đổi đột ngột so với tình hình kinh tế vào cuối năm ngoái - và đại diện cho sự quay trở lại nhịp độ phát triển yếu kể từ sự phục hồi vào mùa hè năm 2009.

Tăng trưởng kinh tế tại Mỹ trong suốt 3 quý đầu năm 2010 không chỉ chậm mà còn bị thống trị bởi sự tích lũy hàng tồn kho chứ không phải từ bán hàng tới người tiêu dùng hoặc các hình thức bán hàng cuối cùng khác. Quý IV năm 2010 mang lại một sự thay đổi được hoan nghênh với việc chi tiêu tiêu dùng tăng ở mức 4% hàng năm, đủ để tổng GDP thực tế quý IV tăng 3,1% so với quý III. Nền kinh tế dường như đã thoát khỏi sự phụ thuộc vào tích lũy hàng tồn kho.

Hiệu quả thuận lợi này khiến các nhà dự báo tư nhân và các quan chức chính phủ dự đoán tăng trưởng tiếp tục mạnh trong năm 2011, với mức sản xuất, việc làm và thu nhập cao hơn đem lại sự tiếp tục gia tăng trong chi tiêu tiêu dùng và sự phục hồi kinh tế tự duy trì. Mức cắt giảm thuế suất theo lương 2% được ban hành nhằm bám chặt vào triển vọng thuận lợi này.



Không may thay, sự phục hồi chi tiêu tiêu dùng dự kiến không xảy ra. Giá lương thực và năng lượng tăng nhanh hơn mức tăng lương danh nghĩa, khiến cho mức thu nhập tuần trung bình thực tế giảm vào tháng 1 trong khi giá nhà liên tục giảm làm giảm sự giàu có của đại đa số các hộ gia đình. Kết quả là, chi phí tiêu dùng cá nhân thực tế tăng ở mức khoảng 1% hàng năm vào tháng 1, giảm so với mức tăng 4% của quý trước.

Mô hình giá tăng và thu nhập thực tế giảm lặp lại trong tháng 2 và 3, với chỉ số giá tiêu dùng CPI tăng mạnh khiến cho thu nhập tuần trung bình thực tế giảm ở mức thường niên hơn 5%. Không ngạc nhiên gì, các biện pháp điều tra về tâm lý người tiêu dùng giảm mạnh và chi tiêu tiêu dùng hầu như không tăng từ tháng này qua tháng khác.

Thị trường nhà ở nguội lạnh

Giá nhà giảm đẩy việc bán hàng nhà mới và hiện tại xuống thấp. Điều này gây ra sự sụt giảm đáng kể trong khối lượng nhà ở và xây dựng nhà ở.

Sự sụt giảm đó có thể còn tiếp diễn vì gần 30% các nhà ở thế chấp có giá trị thấp hơn giá trị của khoản thế chấp. Điều này tạo ra động lực mạnh mẽ cho việc tuyên bố mất khả năng chi trả vì các khoản thế chấp tại Mỹ là các khoản vay miễn truy đòi: các chủ nợ có thể lấy tài sản nếu người vay không trả nợ nhưng không thể lấy các tài sản khác hoặc một phần của thu nhập lương. Kết quả là 10% các khoản thế chấp hiện đang trong tình trạng khuyết tịch hoặc bị tịch thu thế chấp, hoặc có nguy cơ bị bán ở mức giá giảm.

Các doanh nghiệp phản ứng tiêu cực với sự suy yếu của nhu cầu nhà ở với các chỉ số, do Viện Quản lý cung cấp đưa ra, giảm đối cả các công ty sản xuất lẫn dịch vụ. Mặc dù các công ty lớn tiếp tục có lượng tiền mặt đáng kể trên bảng cân đối kế toán thì luồng tiền từ các hoạt động hiện tại của các công ty này giảm trong quý I.

Tính toán các đơn hàng gần nhất cho các hàng hóa cơ bản báo hiệu sự suy giảm trong đầu tư kinh doanh.

Thất nghiệp tăng cao, chứng khoán suy giảm

Tình trạng yếu kém tiếp tục tăng trong tháng 4 và 5. Mức tăng việc làm tương đối nhanh diễn ra trong 4 tháng đầu năm tạm ngừng trong tháng 5 khi chỉ có 54.000 việc làm mới được tạo ra, ít hơn 1/3 mức tăng trưởng việc làm trung bình trong 4 tháng đầu năm. Kết quả là tỷ lệ thất nghiệp tăng tới 9,1% trong lực lượng lao động.

Thị trường chứng khoán và giá cổ phiếu phản ứng lại với tất cả những tin xấu này theo cách có thể dự đoán được. Lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm giảm 3% và thị trường chứng khoán giảm trong 6 tuần liên tiếp, mức giảm giá lâu nhất kể từ năm 2002, với mức giảm giá cổ phiếu tích lũy tới hơn 6%. Giá cổ phiếu thấp hơn sẽ có những tác động tiêu cực tới chi tiêu tiêu dùng và đầu tư kinh doanh.

Không thể trông chờ chính sách tiền tệ và tài khóa sẽ lật ngược tình thế. Cục dự trữ liên bang Mỹ sẽ duy trì chính sách giữ lãi suất cách nhật ở mức gần bằng 0; nhưng, trong bối cảnh lo sợ về bong bóng giá tài sản, cục sẽ không bảo lưu quyết định chấm dứt chính sách mua trái phiếu chính phủ - cái gọi là "nới lỏng định lượng" - vào cuối tháng 6.

Chính sách tài khóa thực sự sẽ thắt chặt trong các tháng tới. Chương trình kích thích tài chính thực thi năm 2009 sắp kết thúc với gói kích thích chi tiêu giảm từ 400 tỷ USD trong năm 2010 còn 137 tỷ USD trong năm nay. Các cuộc đàm phán cắt giảm chi tiêu hơn nữa và tăng thuế đang được tiến hành để giảm sự thâm hụt tài chính hơn nữa được dự đoán cho năm 2011 và các năm sau.

Vì vậy triển vọng ngắn hạn cho nền kinh tế Mỹ chắc chắn là yếu. Việc thay đổi các chính sách cơ bản rất có thể phải đợi đến sau cuộc bầu cử Quốc hội và tổng thống vào tháng 11 năm 2012.

Tác giả: NGUYỄN TUYẾN (PROJECT SYNDICATE)

Wednesday, March 21, 2012

Ý tưởng "điên rồ" có thể kiếm triệu đô


Nhiều người thực hiện việc kiếm tiền qua mạng khá thành công. Họ kiếm triệu đô chỉ với chiếc máy tính với những ý tưởng khá "điên rồ".




Bán 714.286 cuốn sách điện tử trên Kindle Hãy thử hình dung, mỗi cuốn sách giá 2 USD (khoảng 45k VNĐ) thường đem lại lợi nhuận 70% sau khi trừ các chi phí. Khi đó, để kiếm về 1 triệu USD (khoảng 22 tỷ đồng), bạn cần phải bán hết veo 714.286 cuốn sách. Liệu ý tưởng trên có phải điều khả thi?

Đầu năm nay, cô nàng 26 tuổ iAmanda Hocking đã tạo cú "hit" lớn trên thị trường sách điện tử Kindle. Mỗi tháng, cô bán được hơn 100.000 bản ebook với giá từ 1-3 USD (khoảng 22 ngàn đến 66 ngà VNĐ) tùy từng thời điểm. Và tới nay, chị ấy đã đút két vài triệu đô la rồi nhé. Bán 477.784 ứng dụng trên App Store Theo luật mới của Apple, mỗi ứng dụng trên App Store có giá bán tối thiểu 2,99 USD (khoảng 66 ngàn VNĐ). Nếu lợi nhuận trung bình cho ứng dụng khoảng 70%, bạn sẽ thu được 2,093 USD (khoảng 22 ngàn VNĐ) tiền lãi. Như vậy nhà phát triển cần bán xong 477.784 lượt ứng dụng là bỏ túi 1 triệu USD (khoảng 22 tỷ đồng) rồi đấy.

 

Câu chuyện nghe chừng khó tin nhưng đấy chính là điều mà Doodle Jump's Igor và Marko Pusenjak, Tap Tap Revenge cùng Peter Verterbacka đã làm được với trò chơi chim điên (Angry Birds) đó nha. Bán 250.000 món đồ trên FiverrFiverr cho phép bạn kinh doanh mọi thứ có ích cho người khác với giá từ 1 đến 5 USD (khoảng 22k đến 110k VNĐ). Mặt hàng có thể là món đồ chơi hay đoạn video dạy lộn nhào trên bãi biển. Nếu trung bình mỗi thứ đem về lợi nhuận 80% thì bạn có tối đa 4 USD tiền lãi (khoảng 88k VNĐ) với mỗi sản phẩn bán đi.




Như vậy, để bỏ túi 1 triệu USD (khoảng 22 tỷ đồng), bạn cần tẩu tán được ít nhất 250.000 món đồ. Chưa có ai làm được đâu nhé, cho nên ý tưởng lạ lùng này vẫn còn phi thực tế. Bán 10.262 kế hoạch kinh doanh trên eBayNếu mỗi kế hoạch kinh doanh bán trên eBay có mức phí 111 USD (khoảng 2,4 triệu đồng) thì bạn phải nộp lại cho eBay một khoản chi phí bằng 13,55 USD (khoảng 300 ngàn VNĐ).




Trừ đi các khoản, mỗi giao dịch thành công mang lại lợi nhuận bằng 97,45 USD (khoảng 2 triệu đồng). Như vậy cần đến 10.262 bản kế hoạch để hoàn thành mục tiêu 1 triệu USD (khoảng 22 tỷ đồng). Vào đầu năm nay, Samuel Katabaaz đã bán được tới 99.999 bản kế hoạch kinh doanh của mình với mức giá 111 USD (khoảng 2,4 triệu đồng). Không phải bỏ vốn mà thu được số tiền khổng lồ thì quả thực hiếm. Tweet 800.000 tin nhắn tài trợ trên MyLikes Cách kiếm tiền giống như việc bạn ngồi đăng từng tin nhắn để kiếm vài xu mỗi khi có người click vào đó. Cách tính điểm bằng công cụ MyLikes Engagement Score, dựa trên những hoạt động của người dùng tại Twitter, Facebook và YouTube. Nếu có vài nghìn người nám đuôi thì mỗi click của bạn được trả tới 0,25 USD (khoảng 6 ngàn VNĐ), còn trên 100.000 người theo dõi thì mỗi click có giá 1 USD (khoảng 22 ngàn VNĐ).



Chúng ta hãy cùng lấy ví dụ với 0.25 USD cho mỗi click nhé. Tính ra sẽ cần đến 4.000.000 click. Nếu trung bình 5 người nhấp vào 1 link thì bạn sẽ cần đạt 800.000 tweet đấy. Ngay cả những ông vua tweet như Snooki và Khloe Kardashian cũng chỉ kiếm được 40.000 USD (khoảng 880 triệu đồng) mỗi tháng. Vậy bao giờ chúng ta mới thu về 1 triệu USD (khoảng 22 tỷ đồng) theo cách này đây nhỉ? Bán 1.000.000 pixel trên web quảng cáo Rất đơn giản, mỗi pixel có giá 1 USD (khoảng 22 ngàn VNĐ) và khi bán được 1 triệu pixel, bạn sẽ đút túi 1 triệu USD (khoảng 22 tỷ đồng). Đó chính là ý tưởng táo bạo của Alex Tewkhi anh chàng phải vắt óc nghĩ cách kiếm tiền đóng học phí.



Sau khi dụ được gia đình và người thân mua 1.000 pixel đầu tiên, giới truyền thông đã vào cuộc và hết lời tung hô Alex Tew. Rất nhanh chóng, hàng triệu website tranh nhau mua miếng đất nhỏ 1 pixel trên trang web này. Nhờ vậy nên anh chàng cũng nhanh chóng trở thành triệu phú chính hiệu.


Nguồn Kênh 14

Ý tưởng gợi mở từ ký ức tuổi thơ



Bạn đang muốn bắt tay vào kinh doanh nhưng chưa biết rõ sẽ đầu tư vào lĩnh vực nào? Bạn vẫn đang phân vân không biết mình thực sự muốn làm điều gì trong đời? Năm gợi ý sau đây sẽ giúp bạn tìm thấy điều mình thật sự yêu thích.

Nhớ lại thời thơ ấu, bạn từng muốn làm gì nhất?











Hãy dành thời gian nhớ lại và viết ra một danh sách những điều mà bạn muốn làm khi còn nhỏ.
























Hãy dành thời gian nhớ lại và viết ra một danh sách những điều mà bạn muốn làm khi còn nhỏ. Nhớ lại cả những món ăn, sự kiện lúc nhỏ bạn từng yêu thích hoặc ấn tượng. Và tự hỏi hiện giờ mình còn thích thú với những việc này haykhông? Những sở thích và kinh nghiệm này có thể đóng góp gì cho kế hoạch kinh doanh của bạn trong hiện tại?

Nhiều khi chúng ta lọt thỏm giữa bộn bề của cuộc sống hiện tại mà bỏ quên những giấc mơ thực sự của cuộc đời mình. Trước khi quyết định bước vào kinh doanh, bạn cần có những khoảng lặng nhất định để hiểu rõ bản thân đang cần gì.

Ghi nhớ và tập họp các ý tưởng

Dùng một tấm carton hoặc tấm bảng lớn, viết, vẽ, dán bất cứ điều gì truyền cảm hứng kinh doanh cho bạn lên đó. Đó có thể là một bài báo, vài câu phát biểu, câu chuyện thành công, hình ảnh hay bất kỳ vật gì mang đến cho bạn cảm hứng và ý tưởng kinh doanh.

Một tấm bảng như thế này sẽ giúp bạn nhận ra mình đang thực sự quan tâm tới điều gì, bạn muốn trở thành người như thế nào và bạn muốn đạt được điều gì trong đời. Nhận thức và đam mê của bạn với vấn đề cũng được bồi đắp ngày qua ngày.

Khi những ý tưởng trên bảng bắt đầu tập trung vào một vấn đề, bạn hãy loại bỏ bớt những vần đề mà bạn chưa quan tâm mấy, sau đó tiếp tục thêm vào những chỗ còn trống những ý tưởng mới để hoàn chỉnh bức tranh mà bạn mơ ước.

Lập ra một danh sách những người mà bạn ngưỡng mộ

Bạn không cần phải là người sáng tạo tiên phong, có rất nhiều tấm gương thành công trong kinh doanh mà bạn có thể học hỏi.
Trong giai đọan khủng hoảng, nhiều nhà đầu tư từ bỏ lĩnh vực bất động sản vì nghĩ thị trường sắp tới hồi kết, tuy nhiên vẫn có những người trụ lại và thành công. Bạn hãy học hỏi họ, vì sao những người này có thể trụ lại trong khi tất cả đã bỏ cuộc. Danh sách này có thể có những người làm trong lĩnh vực kinh doanh. Bạn cũng không cần thiết phải.

Nếu bạn vẫn muốn khám phá lối đi riêng cho mình, hãy bắt đầu bằng việc viết một kế họach nghiêm túc và chặt chẽ. Sự sáng tạo không nằm trong bản thân bản kế họach hay một ý tưởng kinh doanh quá độc đáo mà hiện diện trong từng bước đi của bạn nhằm hiện thực hóa bản kế họach đó.

Bắt tay vào làm những việc mình thích

Có rất nhiều người chờ đến khi hoàn thành bản kế hoạch, tìm được nguồn vốn mới bắt tay vào kinh doanh. Nhưng quá trình chờ đợi này có thể là ..mãi mãi. Nếu bạn yêu thích và mong muốn làm điều gì thì hãy làm ngay bây giờ cho dù bạn chưa nghĩ ra cách nào để kiếm tiền từ việc đó. Quá trình làm việc sẽ dẫn đến những ý tưởng kinh doanh.

Bắt tay ngay vào việc giúp bạn vượt qua những lo lắng và sợ hãi trong quá trình khởi nghiệp. Niềm vui công việc và những thành quả bước đầu sẽ tiếp thêm cho bạn sức mạnh hoàn thành tốt các mục tiêu đã đặt ra.

Đừng quá lo nghĩ

Quyết định khởi nghiệp kinh doanh là quyết định rất lớn của cuộc đời của mỗi người. Tuy nhiên, lo lắng và áp lực sẽ vắt cạn sức khỏe, sức sáng tạo và niềm vui của bạn. Thành bại vẫn còn là một ẩn số ở tương lai vì vậy bạn nên thư giãn một chút bằng các hoạt động sáng tạo: viết blog, vẽ tranh, làm vườn hay đi du lịch.

Bạn sẽ ngạc nhiên với những ý tưởng mới mẻ của chính mình. Quan sát cuộc sống xung quanh, tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống sẽ mang đến cho bạn niềm hứng khởi mạnh mẽ để bắt tay vào công việc.



Nguồn ENTREPRENEUR - dịch PHÚC AN

Tuesday, March 20, 2012

Có thể tăng 60% lợi nhuận nhờ SCM

Kiến thức chuyên môn về quản lý chuỗi cung ứng (Supply Chain Management - SCM) là chìa khóa cho doanh nghiệp (DN) nâng cao cạnh tranh và phát triển bền vững. Tuy nhiên, nhiều DN chưa nhận thức cũng như cập nhật kiến thức mới về SCM.


 

Quản lý cung ứng để giảm chi phí
Hội thảo “Định hướng phát triển quản trị chuỗi cung ứng trên thế giới và cách ứng dụng hiệu quả cho DN Việt Nam” do Trường Đào tạo Quản lý DN (CBAM thuộc VCCI) tổ chức tại TP.HCM ngày 20/4/2011. Các diễn giả cho rằng, quản trị DN tại các nước đang phát triển không đơn giản, đòi hỏi nhà quản trị phải có kỹ năng giải quyết công việc một cách hệ thống.

Bà Margareta Funder đến từ Thụy Sĩ, Giám đốc Chương trình Đào tạo theo Mô-đun về SCM (Modular Learning System in Supply Chain Management - MLS-SCM) cho biết: các nhà nhập khẩu và xuất khẩu chỉ là những mắt xích (và là những mắt xích yếu nhất) của chuỗi cung ứng. Chuỗi cung ứng hình thành thoạt tiên từ các nhà cung cấp nguyên vật liệu đến các nhà chế tạo thành phần, linh kiện. Sau đó là đến các nhà sản xuất tổng thành sản phẩm thiết bị. Rồi, qua các nhà nhập khẩu, xuất khẩu tới các nhà bán lẻ để đến tay người tiêu dùng…


Trong thành phần chi phí của một sản phẩm thường có đến 60% thuộc về chuỗi cung ứng; 15% chi phí nhân công; 15% chi phí hoạt động chung (Overheads),10% tiền lời (Profit).

Chương trình MLS-SCM được vận hành bởi Trung tâm Thương mại Quốc tế ITC (do Tổ chức Thương Mại Thế giới và Liên Hợp Quốc phối hợp thành lập) đã giúp nhiều học viên nhìn rõ mô hình liên kết nói trên để từ đó có biện pháp quản lý hiệu quả. Chẳng hạn ông Vishuddha Piyathilake (Sri Lanca) sau các khoá học MLS-SCM đã giúp DN mình giảm hàng tồn kho nhờ giảm số lần đặt hàng nhưng tăng số lượng đặt hàng trong mỗi lần. Nhờ thế, công ty của Vishuddha đã giảm được nhiều chi phí lưu kho.

Ở Việt Nam có câu chuyện thành công của bà Bùi Thị Vân Hà, chuyên gia đấu thầu ở Công ty Thăng Long. Sau khoá học MLS-SCM, bà đã áp dụng kiến thức này vào việc đấu thầu mua dầu DO cho Công ty Thăng Long. Mặc dù DO là mặt hàng có giá được quy định bởi Chính phủ nhưng bằng đàm phán, bà đã thuyết phục được đối tác cung ứng chiết khấu 1% trên hợp đồng, là một thành tích rất lớn vì đơn hàng trị giá nhiều triệu đô la Mỹ/năm. Theo bà, “SCM không phải là chủ đề cao siêu mà rất thực tế, cụ thể, có thể áp dụng cho mọi cấp độ từ lãnh đạo đến nhân viên”.

 

Vận dụng trực tuyến
Ông Enrique Martinez, Chuyên gia tư vấn cao cấp về chuỗi cung ứng của Tập đoàn Bayan Trade, Philippines, cho biết: “Những đơn hàng lên đến 80% giá trị chi tiêu thường chỉ chiếm 20% khối lượng giao dịch và ngược lại, những đơn hàng chiếm 20% giá trị chi tiêu thì lại chiếm đến 80% khối lượng giao dịch! Mặt khác, DN hãy chuyển các khoản chi tiêu không quan trọng sang hình thức mua sắm trực tuyến để tập trung vào các đơn hàng có giá trị chi tiêu lớn hơn. Ông Enrique cũng cổ vũ cho đấu giá trực tuyến. Có 2 loại đấu giá trực tuyến: đấu giá ngược (reverse) để mua và đấu giá (forward auctions) để bán. Ông cho biết đấu giá trực tuyến giúp giảm chi phí mua sắm đến 20% và rất thường gặp ở Philippines.


Trong thành phần chi phí của một sản phẩm thường có đến 60% thuộc về chuỗi cung ứng; 15% chi phí nhân công; 15% chi phí hoạt động chung (Overheads),10% tiền lời (Profit).

Ông Kevin Nguyễn, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Công ty Global CyberSoft (GCS) Việt Nam nói: “Nếu như Hoạch định nguồn lực DN (ERP) là các quy trình bên trong thì Quản lý quan hệ khách hàng CRM và Quản lý chuỗi cung ứng SCM là các quá trình bên ngoài của DN”. Với DN, khách hàng là quan trọng nhất và trong quan hệ đó, thời điểm giao hàng luôn luôn đặc biệt, bất kỳ DN nào cũng phải đảm bảo đúng hẹn.

Theo ông Kevin Nguyễn, hoạch định chuỗi cung ứng là công việc quan trọng bao quát ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Sau thời gian hàng chục năm gia công cho Mỹ, Nhật, Đức…, hiện GCS đã sẵn sàng cung cấp tại Việt Nam các giải pháp CNTT cho việc quản lý, điều hành chuỗi cung ứng như: vận hành kho; quản lý bán hàng, phân phối; bán hàng đa kênh; vận hành sản xuất…


 Như Dũng-PcworldVN