Lịch sử Việt Nam không như bấy lâu nay chúng ta được biết là 4000 năm văn hiến từ thời các vua Hùng mà gần đây nhiều thông tin khoa học đã chứng minh văn minh của người Việt Nam đã có từ 5000 năm trước .Người Việt Nam ta nên tự hào là một dân tộc anh hùng và có truyền thống từ lâu đời .
Văn minh lúa nước là một nền văn minh cổ đại xuất hiện từ cách đây khoảng 10.000 năm tại vùng Đông Nam Á và Nam Trung Hoa. Nền văn minh này đã đạt đến trình độ đủ cao về các kỹ thuật canh tác lúa nước, thuỷ lợi, phát triển các công cụ và vật nuôi chuyên dụng. Chính sự phát triển của nền văn minh lúa nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của những nền văn hoá đương thời như Văn hóa Hemudu, Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa Hòa Bình .v.v. Cũng có những ý kiến cho rằng, chính nền văn minh lúa nước là chiếc nôi để hình thành cộng đồng cư dân có lối sống định cư định canh và các giá trị văn hoá phi vật thể kèm theo, đó chính là văn hóa làng xã.
Các nhà khoa học như A.G. Haudricourt & Louis Hedin (1944), E. Werth (1954), H. Wissmann (1957), Carl Sauer (1952), Jacques Barrau (1965, 1974), Soldheim (1969), Chester Gorman (1970)... đã lập luận vững chắc và đưa ra những giả thuyết cho rằng vùng Đông Nam Á là nơi khai sinh nền nông nghiệp đa dạng rất sớm của thế giới[1].
Quê hương của cây lúa, không như nhiều người tưởng là ở Trung Quốc hay Ấn Độ, là ở vùng Đông Nam Á vì vùng này khí hậu ẩm và có điều kiện lí tưởng cho phát triển nghề trồng lúa. Theo kết quả khảo cổ học trong vài thập niên gần đây, quê hương đầu tiên của cây lúa là vùng Đông Nam Á, những nơi mà dấu ấn của cây lúa đã được ghi nhận là khoảng 10.000 năm trước Công Nguyên[2]. Còn ở Trung Quốc, bằng chứng về cây lúa lâu đời nhất chỉ 5.900 đến 7.000 năm về trước, thường thấy ở các vùng xung quanh sông Dương Tử[3]. Từ Đông Nam Á, nghề trồng lúa được du nhập vào Trung Quốc, rồi lan sang Nhật Bản,Hàn Quốc, những nơi mà cư dân chỉ quen với nghề trồng lúa mạch[4].
Ngày nay, giới khoa học quốc tế, kể cả các khoa học gia hàng đầu của Trung Quốc đồng thuận cho rằng quê hương của cây lúa nước là vùng Đông Nam Á và Nam Trung Hoa.
Để khẳng định về các luận điểm cho một nền Văn minh lúa nước, chúng ta phải hiểu rằng việc trồng trọt, thu hoạch, cất giữ, chế biến thành thực phẩm từ sản phẩm của lúa nước là phải đạt đến một trình độ tiên tiến và đảm bảo sự thặng dư thực phẩm phục vụ cho một xã hội dân cư đông đúc và thúc đẩy các yếu tố khác của một nền văn minh ra đời.fwt
Các cuộc khảo cổ gần đây đã chứng minh sự tồn tại của con người trên lãnh thổ Việt Nam từ thời Đồ đá cũ. Vào thời kỳ Đồ đá mới, các nền văn hoá Hoà Bình - Bắc Sơn (gần 10.000 năm trước CN) đã chứng tỏ sự xuất hiện của nông nghiệp và chăn nuôi, có thể là cả nghệ thuật trồng lúa nước [1].
Các nhà khảo cổ tìm thấy trong lớp đất bên dưới khu khảo cổ thuộc Văn hóa Hòa Bình những hạt thóc hóa thạch khoảng 9260-7620 năm trước. Nhưng theo nhiều nhà khảo cổ, đa số di tích, di vật tìm thấy ở Thái Lan, khi định tuổi lại thấy muộn hơn nhiều so với tuổi định ban đầu trước đó khi người ta tìm thấy những di tích về văn minh lúa nước.
Vết tích bữa cơm tiền sử nấu với gạo từ lúa mọc hoang xưa nhất thế giới, 13.000 năm trước, được một nhóm khảo cổ Mỹ-Trung Hoa tìm thấy trong hang Diaotonghuan phía nam sông Dương Tử (bắc tỉnh Giang Tây). Cư dân sống trong vùng này đã biết thử nghiệm các giống lúa và cách trồng trong thời gian dài tiếp theo đó. Điều này đă được nhóm khảo cổ chứng minh qua sự tăng độ lớn phytolith của lúa (phần thực vật hoá thạch, tồn tại nhờ giàu chất silica) lắng trong những lớp trầm tích theo thời gian. Tin này đã được đăng trên tạp chí khoa học Science, năm 1998. Các nhà khoa học nghiên cứu về phytoliths - thạch thể lúa - này đă chứng minh rằng từ 9000 năm trước dân cổ ở vùng đó đã ăn nhiều gạo của lúa trồng hơn lúa hoang. Nhóm cư dân bản địa này cũng bắt đầu làm đồ gốm thô xốp bằng đất trộn trấu. Kinh nghiệm về trồng lúa tích tụ tại đấy trong mấy ngàn năm đă đưa đến nghề trồng lúa trong toàn vùng nam Dương Tử. Di tích xưa thứ hai, 9000 năm trước, là Pengtou, gần hồ Động Đình phía nam sông Dương Tử. Hơn bốn mươi chỗ có di tích lúa cổ hàng ngàn năm đă được tìm thấy ở vùng nam Trường Giang. Gần cửa biển nam Trường Giang, di tích Văn hoá Hemudu (Hà Mỗ Độ) cho thấy văn minh lúa nước trong vùng lên đến trình độ rất cao vào 7.000 năm trước, sớm hơn cả di tích làng trồng kê Banpo (Bán Pha) xưa nhất của dân tộc Hán phương Bắc.
Hemudu là một làng vài trăm người sống trên nhà sàn trong vùng đầm lầy ở cửa sông Tiền Đường. Dân Hemudu đă trồng lúa, ăn cơm, để lại lớp rơm và trấu dày 25-50 cm, có nơi dày đến cả mét, trên diện tích 400 mét vuông. Có thể đó là lớp rác để lại trên sân đập lúa. Di chỉ thực vật củ ấu, củ năng, táo và di cốt động vật hoang hươu, trâu, tê giác, cọp, voi, cá sấu... cho thấy khí hậu vùng Nam sông Dương Tử bấy giờ thuộc loại nhiệt đới, hoàn toàn thích hợp với việc canh tác lúa nước.
Nền văn hoá Hemudu xưa bảy ngàn năm có nhiều điểm gần gũi với văn hoá Phùng Nguyên-Đông Sơn vốn là những văn hoá trẻ hơn nhiều sau hơn 3000 năm. Cư dân vùng nam Trường Giang lúc ấy có lẽ gần với cư dân Bắc Việt về mặt chủng tộc và văn hoá hơn cư dân bắc Trung Hoa. Khuôn mặt đắp từ sọ người Hemudu trưng bày ở Viện Bảo tàng Hemudu cho thấy họ giống người thuộc chủng Nam Mongoloid, tức là chủng của người Việt Nam từ thời Đông Sơn về sau. Sau văn hoá Hemudu, hàng loạt văn hoá lúa nước khác đã sinh ra dọc lưu vực sông Trường Giang khoảng 4000 năm trước như Liangzhu, Majiabin, Quinshanyang, Qujialing, Daxi, Songze, Dadunze.
Điều kiện đồng bằng sông Hồng là nơi rất thích hợp cho lúa hoang và sau này là lúa trồng. Thật là kỳ lạ, người Việt trong cộng đồng chủng Nam Mongoloid là tổ tiên của văn minh lúa nước.
Trong di chỉ khảo cổ cho ta một bộ sưu tập các lưỡi cày bằng đồng phong phú, vào giữa và cuối thời kỳ Đông Sơn đã xuất hiện khá nhiều đồ sắt và đồ đồng đã chuyển sang các loại vật dụng trang trí và tinh xảo hơn.
Ở giai đoạn đầu, Văn hóa Phùng Nguyên, công cụ bằng đá còn chiếm ưu thế, nền kinh tế còn mang tính chất nguyên thuỷ. Sang đến giai đoạn Đồng Đậu, Gò Mun và nhất làĐông Sơn, nhiều loại hình công cụ bằng đồng ra đời và ngày càng phong phú như lưỡi cuốc, lưỡi cày, lưỡi thuổng, xẻng, lưỡi rìu, v.v. Mỗi loại hình công cụ sản xuất cũng có các kiểu dáng khác nhau. Trong khoảng 200 chiếc lưỡi cày bằng đồng có tới 4 kiểu dáng, đó là lưỡi cày hình tam giác có họng tra cán to khoẻ được phân bố ở dọc sông Thao; lưỡi cày cánh bầu dục, hình thoi được phân bố ở vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, lưỡi cày hình thoi được phân bố tập trung ở vùng sông Mã, lưỡi cày hình xẻng vai ngang phân bố ở vùng làng Vạc. Cuốc bao gồm lưỡi cuốc có lỗ tra cán, cuốc hình tam giác, cuốc có vai, cuốc chữ U, cuốc hình quạt, v.v. Rìu có rìu chữ nhật, rìu tứ diện lưỡi xoè, rìu hình lưỡi xéo, hình bàn chân, rìu lưỡi lệch. Ngoài ra còn có lưỡi liềm đồng, công cụ lao động bằng sắt. Sự tiến bộ của công cụ sản xuất đã thúc đẩy nền kinh tế ngày càng phát triển, đạt đến một trình độ khá cao. Nền kinh tế bao gồm nhiều ngành, nghề, trong đó nông nghiệp trồng lúa nước chiếm địa vị chủ đạo, phổ biến rộng rãi khắp lãnh thổ từ trung du đến đồng bằng, ven biển.
Với việc chế tạo ra lưỡi cày và nông nghiệp dùng cày đã thay thế cho nền nông nghiệp dùng cuốc, đánh dấu bước phát triển mới, mạnh mẽ trong nền kinh tế thời Hùng Vương. Với việc ra đời nhiều loại hình công cụ sản xuất bằng đồng còn chứng tỏ bước tiến về kỹ thuật canh tác của cư dân bấy giờ. Nông nghiệp dùng cày là nguồn cung cấp lương thực chính nuôi sống xã hội, trở thành cơ sở chủ yếu của mọi hoạt động khác.
Những di cốt trâu, bò nhà, tìm thấy trong cùng một di tích văn hóa Đông Sơn, hình bò khắc hoạ trên mặt trống đồng chứng tỏ cư dân thời Hùng Vương đã sử dụng trâu, bò làm sức kéo trong nông nghiệp. Những dấu tích thóc, gạo, những công cụ gặt hái tìm thấy ở các di chỉ thuộc văn hóa Đông Sơn. Di tích thóc, gạo tìm thấy ở làng Vạc gồm 2 nồi gốm trong đó có nhiều hạt thóc, vỏ trấu tìm thấy trong thạp đồng. Các công cụ gặt hái có liềm, dao gặt, nhíp. Nhiều thư tịch cổ cũng ghi chép về sự hiện diện của nghề nông trồng lúa nước thời Hùng Vương như các sách Di vật chí của Dương Phù thời Đông Hán, Thuỷ Kinh Chú của Lịch Đạo Nguyên, thời Bắc Nguỵ, Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn, v.v. chứng tỏ sự phổ biến và phát triển mạnh mẽ của nghề trồng lúa nước thời Hùng Vương.
Yếu tố nước trong việc trồng lúa nước là điều kiện bắt buộc để hình thành văn minh lúa nước. Có lẽ người nguyên thủy lúc đầu phát hiện ra sự khác nhau về năng suất của lúa nương, một loại lúa mọc trên các triền đất khô ẩm và lúa nước mọc ở khu vực ngập nước của lưu vực các con sông lớn là hoàn toàn khác nhau. Cây lúa nước chỉ có thể phát triển tốt khi sống ở những khu vực khí hậu phù hợp như các vùng nhiệt đới, và đặc biệt tốt, năng suất cao khi hàng năm các con sông lớn như sông Hồng, sông Mã... mang theo một lượng phù sa mới, bồi đắp hàng năm vào các mùa nước lũ.
Nhưng nước để trồng lúa phải đủ và cũng vừa để cây lúa sinh trưởng. Việc đảm bảo đủ nước và không thừa, để làm ngập úng đã buộc các cư dân trồng lúa nước phải làmthủy lợi - cân bằng lượng nước cần thiết.
Thủy lợi tự nhiên và đơn giản nhất là đắp bờ ruộng và dẫn nước theo các con kênh vào ruộng và khống chế lượng nước bằng độ cao của lối thoát nước. "Con kênh" lớn nhất của cư dân trồng lúa nước chính là hệ thống đê điều hai bên sông lớn để khống chế nước tràn vào ruộng và mùa lũ lụt hàng năm.
Trong một cuốn sách[5], Sauer viết như sau: Về cái nôi của nền nông nghiệp đầu tiên, tôi xin thưa rằng ở Đông Nam Á. Nơi này quy tụ đầy đủ những điều kiện khác nhau cần thiết về vật lý thể chất, hóa học hữu cơ, khí hậu ôn hòa với cả hai vụ gió mùa, với chu kỳ mùa mưa ẩm ướt và mùa khô tạnh ráo, sông nước tiện cho viêc đánh cá, đất này là trung tâm điểm giao thương cả đường biển lẫn đường bộ của Cựu thế giới. Không có nơi nào mà vị trí lại thích hợp và có đủ yếu tố cung cấp cho sự phát triển nền văn minh hỗn hợp giữa nông và ngư nghiệp tốt hơn nữa. Tôi (lời Sauer) sẽ chứng minh rằng ở trong vùng đất này, ngay từ khi khởi thuỷ, nông nghiệp đã gắn chặt với ngư nghiệp; rằng ở đây người ta gia súc hóa loài vật trước hết và đúng nghĩa, phải là trung tâm chính của thế giới về kỹ thuật trồng cây và cải biến thảo mộc để gia tăng rau trái. Tôi chấp nhận tiên đề quen thuộc là loài người học hỏi cách trồng cây trước khi biết làm mùa với cách reo hạt giống[6].
Một số nhà khoa học khác không công nhận Đông Nam Á là trung tâm phát sinh nông nghiệp mà chỉ xếp hạng nó vào trung tâm thứ yếu. Một số khá đông các nhà nghiên cứu khác cho rằng Nam Trung Hoa là trung tâm chính yếu phát sinh trồng trọt song song với các trung tâm khác ở Trung Đông và Ấn Độ.
Vì địa thế và khí hậu, cũng như chủng tộc, miền châu thổ sông Hồng cùng nguồn gốc trong tiền sử với Nam Trung Hoa. Việc liên hệ trong vài trăm ki lô mét với một không gian nhỏ, một thời kỳ dài hàng chục ngàn năm là một nguồn văn hóa.
Đến nay, vẫn còn có nhiều sự bất đồng trong giới khoa học về các trung tâm sơ khởi nông nghiệp. Tuy vậy, các Ông Burkill và Sauer đều rất tự tin; họ đưa ra các chứng cớ rằng Á Đông chính là nguồn gốc của các thứ khoai, củ. Sau đó theo đường hàng hải, khoai Á Đông được phân tán đi các đảo ngoài Thái Bình Dương, châu Phi và châu Mỹ[7].
Hà Tĩnh: Phát hiện cổ vật 5.000 năm
Ngày 26-5, Sở VH-TT Hà Tĩnh cho biết, hai ông Nguyễn Đình Hương và Cao Xuân Ngọc (xã Đức Đồng, huyện Đức Thọ) khi đào đất đắp nền nhà tại rú Chùa đã phát hiện một số hiện vật bằng đồng. Ông Nguyễn Văn Trương cùng xã cũng phát hiện 3 hiện vật bằng đồng tại rú Cấm.
Bước đầu các nhà khảo cổ địa phương xác định các hiện vật này là lưỡi cày vai nhọn, lưỡi thuổng, lưỡi xẻng, lưỡi rìu vai cân (ảnh). Các nhà khảo cổ nhận định lưỡi cày vai nhọn là loại hiếm gặp ở các di chỉ văn hóa Đông Sơn khác.
Các hiện vật trên bước đầu được xác định có niên đại khoảng 5.000 năm. Hai địa điểm phát hiện đều là đồi núi khá thấp, cao khoảng 50m so với mực nước biển, nằm bên hữu ngạn sông Ngàn Sâu.
Theo M.PH - Sài Gòn Giải Phóng
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Niên biểu lịch sử Việt Nam là hệ thống các sự kiện lịch sử Việt Nam nổi bật theo thời gian từ các thời tiền sử, huyền sử, cổ đại, trung đại, cận đại cho tới lịch sử hiện đại ngày nay.
Chú thích: Các quốc gia cổ của người Chăm thời kỳ này chưa được coi là lịch sử của Việt Nam, nhưng cũng cần kể đến vì là lịch sử của các quốc gia này nằm hoàn toàn trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay và người Chăm là một trong những dân tộc của Việt Nam ngày nay.
- Pháp xâm lược ba tỉnh miền Đông Nam kỳ.
- Tôn Thất Thuyết và Trần Xuân Soạn tấn công Pháp ở đồn Mang Cá.
Văn minh lúa nước
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Văn minh lúa nước là một nền văn minh cổ đại xuất hiện từ cách đây khoảng 10.000 năm tại vùng Đông Nam Á và Nam Trung Hoa. Nền văn minh này đã đạt đến trình độ đủ cao về các kỹ thuật canh tác lúa nước, thuỷ lợi, phát triển các công cụ và vật nuôi chuyên dụng. Chính sự phát triển của nền văn minh lúa nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của những nền văn hoá đương thời như Văn hóa Hemudu, Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa Hòa Bình .v.v. Cũng có những ý kiến cho rằng, chính nền văn minh lúa nước là chiếc nôi để hình thành cộng đồng cư dân có lối sống định cư định canh và các giá trị văn hoá phi vật thể kèm theo, đó chính là văn hóa làng xã.
Mục lục |
Quê hương cây lúa nước
Các nhà khoa học như A.G. Haudricourt & Louis Hedin (1944), E. Werth (1954), H. Wissmann (1957), Carl Sauer (1952), Jacques Barrau (1965, 1974), Soldheim (1969), Chester Gorman (1970)... đã lập luận vững chắc và đưa ra những giả thuyết cho rằng vùng Đông Nam Á là nơi khai sinh nền nông nghiệp đa dạng rất sớm của thế giới[1].
Quê hương của cây lúa, không như nhiều người tưởng là ở Trung Quốc hay Ấn Độ, là ở vùng Đông Nam Á vì vùng này khí hậu ẩm và có điều kiện lí tưởng cho phát triển nghề trồng lúa. Theo kết quả khảo cổ học trong vài thập niên gần đây, quê hương đầu tiên của cây lúa là vùng Đông Nam Á, những nơi mà dấu ấn của cây lúa đã được ghi nhận là khoảng 10.000 năm trước Công Nguyên[2]. Còn ở Trung Quốc, bằng chứng về cây lúa lâu đời nhất chỉ 5.900 đến 7.000 năm về trước, thường thấy ở các vùng xung quanh sông Dương Tử[3]. Từ Đông Nam Á, nghề trồng lúa được du nhập vào Trung Quốc, rồi lan sang Nhật Bản,Hàn Quốc, những nơi mà cư dân chỉ quen với nghề trồng lúa mạch[4].
Ngày nay, giới khoa học quốc tế, kể cả các khoa học gia hàng đầu của Trung Quốc đồng thuận cho rằng quê hương của cây lúa nước là vùng Đông Nam Á và Nam Trung Hoa.
Hiểu thế nào là Văn minh lúa nước
Để khẳng định về các luận điểm cho một nền Văn minh lúa nước, chúng ta phải hiểu rằng việc trồng trọt, thu hoạch, cất giữ, chế biến thành thực phẩm từ sản phẩm của lúa nước là phải đạt đến một trình độ tiên tiến và đảm bảo sự thặng dư thực phẩm phục vụ cho một xã hội dân cư đông đúc và thúc đẩy các yếu tố khác của một nền văn minh ra đời.fwt
Điều kiện cơ bản của Văn minh lúa nước
Môi trường
- Lượng mưa hàng năm ở vào khoảng từ 2.000 - 2.500 mm,
- Vào thời kỳ tăng trưởng cần một lượng mưa vào khoảng 125 mm trong một tháng,
- Thời kỳ thu hoạch cần nhiều nắng (ruộng khô càng tốt),
- Nhiệt độ môi trường thích hợp nhất, khoảng 21 - 27°C,
- Cư dân phải có kinh nghiệm trong việc tưới và tiêu (thủy lợi)
Yếu tố khác
- Khu vực canh tác phải có độ bằng phẳng rất cần thiết để duy trì mực nước từ 100 mm đến 150 mm để giúp cho cây lúa tăng trưởng và kết hạt tốt.
- Chính vì vậy, những khu vực đồng bằng và các lưu vực các con sông chảy qua các miền nhiệt đới nhiều mưa sẽ là môi trường thận lợi cho cây lúa nước phát triển. Ví dụ như đồng bằng sông Hồng, lưu vựcsông Dương Tử... thích hợp cho cây lúa nước.
- Thời vụ là yếu tố cũng quan trọng không kém cho cây lúa nước, điều này thúc đẩy việc sáng chế ra lịch tính ngày, tháng, năm và các mùa trong năm của các cư dân trồng lúa nước.
- Giống lúa cũng là một yếu tố tăng năng suất và phẩm chất cho cây lúa nước mà các cư dân trồng lúa nước đặc biệt coi trọng.
Lịch sử phát triển và khảo cổ học
Các cuộc khảo cổ gần đây đã chứng minh sự tồn tại của con người trên lãnh thổ Việt Nam từ thời Đồ đá cũ. Vào thời kỳ Đồ đá mới, các nền văn hoá Hoà Bình - Bắc Sơn (gần 10.000 năm trước CN) đã chứng tỏ sự xuất hiện của nông nghiệp và chăn nuôi, có thể là cả nghệ thuật trồng lúa nước [1].
Các nhà khảo cổ tìm thấy trong lớp đất bên dưới khu khảo cổ thuộc Văn hóa Hòa Bình những hạt thóc hóa thạch khoảng 9260-7620 năm trước. Nhưng theo nhiều nhà khảo cổ, đa số di tích, di vật tìm thấy ở Thái Lan, khi định tuổi lại thấy muộn hơn nhiều so với tuổi định ban đầu trước đó khi người ta tìm thấy những di tích về văn minh lúa nước.
Vết tích bữa cơm tiền sử nấu với gạo từ lúa mọc hoang xưa nhất thế giới, 13.000 năm trước, được một nhóm khảo cổ Mỹ-Trung Hoa tìm thấy trong hang Diaotonghuan phía nam sông Dương Tử (bắc tỉnh Giang Tây). Cư dân sống trong vùng này đã biết thử nghiệm các giống lúa và cách trồng trong thời gian dài tiếp theo đó. Điều này đă được nhóm khảo cổ chứng minh qua sự tăng độ lớn phytolith của lúa (phần thực vật hoá thạch, tồn tại nhờ giàu chất silica) lắng trong những lớp trầm tích theo thời gian. Tin này đã được đăng trên tạp chí khoa học Science, năm 1998. Các nhà khoa học nghiên cứu về phytoliths - thạch thể lúa - này đă chứng minh rằng từ 9000 năm trước dân cổ ở vùng đó đã ăn nhiều gạo của lúa trồng hơn lúa hoang. Nhóm cư dân bản địa này cũng bắt đầu làm đồ gốm thô xốp bằng đất trộn trấu. Kinh nghiệm về trồng lúa tích tụ tại đấy trong mấy ngàn năm đă đưa đến nghề trồng lúa trong toàn vùng nam Dương Tử. Di tích xưa thứ hai, 9000 năm trước, là Pengtou, gần hồ Động Đình phía nam sông Dương Tử. Hơn bốn mươi chỗ có di tích lúa cổ hàng ngàn năm đă được tìm thấy ở vùng nam Trường Giang. Gần cửa biển nam Trường Giang, di tích Văn hoá Hemudu (Hà Mỗ Độ) cho thấy văn minh lúa nước trong vùng lên đến trình độ rất cao vào 7.000 năm trước, sớm hơn cả di tích làng trồng kê Banpo (Bán Pha) xưa nhất của dân tộc Hán phương Bắc.
Hemudu là một làng vài trăm người sống trên nhà sàn trong vùng đầm lầy ở cửa sông Tiền Đường. Dân Hemudu đă trồng lúa, ăn cơm, để lại lớp rơm và trấu dày 25-50 cm, có nơi dày đến cả mét, trên diện tích 400 mét vuông. Có thể đó là lớp rác để lại trên sân đập lúa. Di chỉ thực vật củ ấu, củ năng, táo và di cốt động vật hoang hươu, trâu, tê giác, cọp, voi, cá sấu... cho thấy khí hậu vùng Nam sông Dương Tử bấy giờ thuộc loại nhiệt đới, hoàn toàn thích hợp với việc canh tác lúa nước.
Nền văn hoá Hemudu xưa bảy ngàn năm có nhiều điểm gần gũi với văn hoá Phùng Nguyên-Đông Sơn vốn là những văn hoá trẻ hơn nhiều sau hơn 3000 năm. Cư dân vùng nam Trường Giang lúc ấy có lẽ gần với cư dân Bắc Việt về mặt chủng tộc và văn hoá hơn cư dân bắc Trung Hoa. Khuôn mặt đắp từ sọ người Hemudu trưng bày ở Viện Bảo tàng Hemudu cho thấy họ giống người thuộc chủng Nam Mongoloid, tức là chủng của người Việt Nam từ thời Đông Sơn về sau. Sau văn hoá Hemudu, hàng loạt văn hoá lúa nước khác đã sinh ra dọc lưu vực sông Trường Giang khoảng 4000 năm trước như Liangzhu, Majiabin, Quinshanyang, Qujialing, Daxi, Songze, Dadunze.
Điều kiện đồng bằng sông Hồng là nơi rất thích hợp cho lúa hoang và sau này là lúa trồng. Thật là kỳ lạ, người Việt trong cộng đồng chủng Nam Mongoloid là tổ tiên của văn minh lúa nước.
Cải tiến nông cụ - cơ sở tăng năng suất
Trong di chỉ khảo cổ cho ta một bộ sưu tập các lưỡi cày bằng đồng phong phú, vào giữa và cuối thời kỳ Đông Sơn đã xuất hiện khá nhiều đồ sắt và đồ đồng đã chuyển sang các loại vật dụng trang trí và tinh xảo hơn.
Ở giai đoạn đầu, Văn hóa Phùng Nguyên, công cụ bằng đá còn chiếm ưu thế, nền kinh tế còn mang tính chất nguyên thuỷ. Sang đến giai đoạn Đồng Đậu, Gò Mun và nhất làĐông Sơn, nhiều loại hình công cụ bằng đồng ra đời và ngày càng phong phú như lưỡi cuốc, lưỡi cày, lưỡi thuổng, xẻng, lưỡi rìu, v.v. Mỗi loại hình công cụ sản xuất cũng có các kiểu dáng khác nhau. Trong khoảng 200 chiếc lưỡi cày bằng đồng có tới 4 kiểu dáng, đó là lưỡi cày hình tam giác có họng tra cán to khoẻ được phân bố ở dọc sông Thao; lưỡi cày cánh bầu dục, hình thoi được phân bố ở vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, lưỡi cày hình thoi được phân bố tập trung ở vùng sông Mã, lưỡi cày hình xẻng vai ngang phân bố ở vùng làng Vạc. Cuốc bao gồm lưỡi cuốc có lỗ tra cán, cuốc hình tam giác, cuốc có vai, cuốc chữ U, cuốc hình quạt, v.v. Rìu có rìu chữ nhật, rìu tứ diện lưỡi xoè, rìu hình lưỡi xéo, hình bàn chân, rìu lưỡi lệch. Ngoài ra còn có lưỡi liềm đồng, công cụ lao động bằng sắt. Sự tiến bộ của công cụ sản xuất đã thúc đẩy nền kinh tế ngày càng phát triển, đạt đến một trình độ khá cao. Nền kinh tế bao gồm nhiều ngành, nghề, trong đó nông nghiệp trồng lúa nước chiếm địa vị chủ đạo, phổ biến rộng rãi khắp lãnh thổ từ trung du đến đồng bằng, ven biển.
Với việc chế tạo ra lưỡi cày và nông nghiệp dùng cày đã thay thế cho nền nông nghiệp dùng cuốc, đánh dấu bước phát triển mới, mạnh mẽ trong nền kinh tế thời Hùng Vương. Với việc ra đời nhiều loại hình công cụ sản xuất bằng đồng còn chứng tỏ bước tiến về kỹ thuật canh tác của cư dân bấy giờ. Nông nghiệp dùng cày là nguồn cung cấp lương thực chính nuôi sống xã hội, trở thành cơ sở chủ yếu của mọi hoạt động khác.
Những di cốt trâu, bò nhà, tìm thấy trong cùng một di tích văn hóa Đông Sơn, hình bò khắc hoạ trên mặt trống đồng chứng tỏ cư dân thời Hùng Vương đã sử dụng trâu, bò làm sức kéo trong nông nghiệp. Những dấu tích thóc, gạo, những công cụ gặt hái tìm thấy ở các di chỉ thuộc văn hóa Đông Sơn. Di tích thóc, gạo tìm thấy ở làng Vạc gồm 2 nồi gốm trong đó có nhiều hạt thóc, vỏ trấu tìm thấy trong thạp đồng. Các công cụ gặt hái có liềm, dao gặt, nhíp. Nhiều thư tịch cổ cũng ghi chép về sự hiện diện của nghề nông trồng lúa nước thời Hùng Vương như các sách Di vật chí của Dương Phù thời Đông Hán, Thuỷ Kinh Chú của Lịch Đạo Nguyên, thời Bắc Nguỵ, Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn, v.v. chứng tỏ sự phổ biến và phát triển mạnh mẽ của nghề trồng lúa nước thời Hùng Vương.
Thủy lợi- yếu tố nền chính của văn minh lúa nước
Yếu tố nước trong việc trồng lúa nước là điều kiện bắt buộc để hình thành văn minh lúa nước. Có lẽ người nguyên thủy lúc đầu phát hiện ra sự khác nhau về năng suất của lúa nương, một loại lúa mọc trên các triền đất khô ẩm và lúa nước mọc ở khu vực ngập nước của lưu vực các con sông lớn là hoàn toàn khác nhau. Cây lúa nước chỉ có thể phát triển tốt khi sống ở những khu vực khí hậu phù hợp như các vùng nhiệt đới, và đặc biệt tốt, năng suất cao khi hàng năm các con sông lớn như sông Hồng, sông Mã... mang theo một lượng phù sa mới, bồi đắp hàng năm vào các mùa nước lũ.
Nhưng nước để trồng lúa phải đủ và cũng vừa để cây lúa sinh trưởng. Việc đảm bảo đủ nước và không thừa, để làm ngập úng đã buộc các cư dân trồng lúa nước phải làmthủy lợi - cân bằng lượng nước cần thiết.
Thủy lợi tự nhiên và đơn giản nhất là đắp bờ ruộng và dẫn nước theo các con kênh vào ruộng và khống chế lượng nước bằng độ cao của lối thoát nước. "Con kênh" lớn nhất của cư dân trồng lúa nước chính là hệ thống đê điều hai bên sông lớn để khống chế nước tràn vào ruộng và mùa lũ lụt hàng năm.
Đánh giá
Trong một cuốn sách[5], Sauer viết như sau: Về cái nôi của nền nông nghiệp đầu tiên, tôi xin thưa rằng ở Đông Nam Á. Nơi này quy tụ đầy đủ những điều kiện khác nhau cần thiết về vật lý thể chất, hóa học hữu cơ, khí hậu ôn hòa với cả hai vụ gió mùa, với chu kỳ mùa mưa ẩm ướt và mùa khô tạnh ráo, sông nước tiện cho viêc đánh cá, đất này là trung tâm điểm giao thương cả đường biển lẫn đường bộ của Cựu thế giới. Không có nơi nào mà vị trí lại thích hợp và có đủ yếu tố cung cấp cho sự phát triển nền văn minh hỗn hợp giữa nông và ngư nghiệp tốt hơn nữa. Tôi (lời Sauer) sẽ chứng minh rằng ở trong vùng đất này, ngay từ khi khởi thuỷ, nông nghiệp đã gắn chặt với ngư nghiệp; rằng ở đây người ta gia súc hóa loài vật trước hết và đúng nghĩa, phải là trung tâm chính của thế giới về kỹ thuật trồng cây và cải biến thảo mộc để gia tăng rau trái. Tôi chấp nhận tiên đề quen thuộc là loài người học hỏi cách trồng cây trước khi biết làm mùa với cách reo hạt giống[6].
Một số nhà khoa học khác không công nhận Đông Nam Á là trung tâm phát sinh nông nghiệp mà chỉ xếp hạng nó vào trung tâm thứ yếu. Một số khá đông các nhà nghiên cứu khác cho rằng Nam Trung Hoa là trung tâm chính yếu phát sinh trồng trọt song song với các trung tâm khác ở Trung Đông và Ấn Độ.
Vì địa thế và khí hậu, cũng như chủng tộc, miền châu thổ sông Hồng cùng nguồn gốc trong tiền sử với Nam Trung Hoa. Việc liên hệ trong vài trăm ki lô mét với một không gian nhỏ, một thời kỳ dài hàng chục ngàn năm là một nguồn văn hóa.
Đến nay, vẫn còn có nhiều sự bất đồng trong giới khoa học về các trung tâm sơ khởi nông nghiệp. Tuy vậy, các Ông Burkill và Sauer đều rất tự tin; họ đưa ra các chứng cớ rằng Á Đông chính là nguồn gốc của các thứ khoai, củ. Sau đó theo đường hàng hải, khoai Á Đông được phân tán đi các đảo ngoài Thái Bình Dương, châu Phi và châu Mỹ[7].
Chú thích
- ^ Tiến sĩ Wilhelm G. Solheim phát biểu rằng: Tôi đồng ý với Sauer là việc gây giống cây đầu tiên trên thế giới đã được thực hiện bởi người dân thuộc nền Văn hóa Hòa Bình ở vùng Đông Nam Á. Chẳng phải là điều ngạc-nhiên đối với tôi nếu như thành tích đó đã khởi sự sớm, từ 15.000 năm TCN.
- ^ Xem, chẳng hạn như, "Southeast Asia and Korea: from the beginning of food production to the first states" của Wilhelm Solheim, trong sách "The history of humanity: Scientific and cultural development", quyển 1: "Prehistory and the beginning of civilisation", UNESCO/Routledge, London: 1994, trang 468-81
- ^ Eden in the East: the Drowned Continent of Southeast Asia, của Stephen Oppenheimer, Nhà xuất bản Phoenix (London), 1998, trang 65-71
- ^ Ở Trung Quốc và Nhật Bản ngày xưa, chỉ có giai cấp quí tộc hay võ sĩ mới có gạo ăn thường xuyên. Ở Hàn Quốc, người ta có danh từ annam mi để chỉ loại gạo nhập cảng từ Việt Nam và các nước Đông Nam Á.
- ^ Carl Sauer, Agricultural Origins and Dispersal, The American Geographical Society, New York, 1952.
- ^ Trang 24-25
- ^ Alexander, John: 1970, The Domestication of Yams: A Multi disciplinary Approach, in: Science in Archaeology: A Survey of Progress and Research, 2nd edition, revised and enlarged, edited by Don Brothwell and Eric Higgs, pages 229-234, Praeger: New York
Trang liên kết ngoài
- Những nét tiêu biểu của nền văn minh Việt Nam
- Hành trình về cội nguồn Việt Nam
- Văn minh cổ và nguồn gốc dân tộc Việt Nam
- Sơ lược lịch sử Việt Nam
- Nghề trồng lúa Việt Nam
- Triết lý bánh chưng bánh dày
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Ngàn Năm Văn HiếnCác nhà khảo cổ học và nhân chứng học đã tìm thấy những dấu tích của con người trên lãnh thổ Việt Nam cách ngày nay hàng chục vạn năm.
Trên sườn núi Đọ - Thanh Hóa (còn có các tranh luận về niên đại của di tích này) và tại các địa điểm Hang Gòn, Dầu Dây (Đồng Nai), đã phát hiện được những công cụ đá thô sơ của sơ kỳ thời đại đá cũ. Di cốt người vượn (archanthropus) cũng đã tìm thấy trong hang Thẩm Hai và Thẩm Khuyên (Lạng Sơn). Đó là những chiếc răng hóa thạch có những đặc điểm gần với răng người vượn Bắc Kinh (Sinanthropus pekinensis), nằm trong di cốt một quần động vật thời kỳ trung kỳ cách tân (Pléistocène) cách ngày nay khoảng 30 vạn dặm. Như vậy cách đây hàng chục vạn năm, đã có những bầy người vượn sinh sống rải rác trên ba miền Bắc, Trung, Nam Việt Nam.
Tại hang Thẩm ồm (Nghệ An), tìm thấy răng hóa thạch của một loài người vượn sống cách ngày nay 14-25 vạn năm, đang trên quá trình tiến hóa từ người đứng thẳng (homo erectus) lên người hiện đại (homo sapiens).
Tiếp theo đó, di cốt người hiện đại đã được phát hiện ở hang Hùm (Yên Bái) có niên đại 8-14 vạn năm, rồi ở Kéo Lèng (Lạng Sơn), Soi Nhụ (Quảng Ninh), Thung Lang (Ninh Bình. Những phát hiện trên cho thấy quá trình chuyển hóa từ người vượn thành người hiện đại diễn ra khá sớm trên lãnh thổ Việt Nam. Đó là những trang mở đầu của lịch sử thời nguyên thủy Việt Nam.
Từ văn hóa Sơn Vi phát triển lên văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn thuộc thời kỳ nguyên đá mới (protonéolithique) và sơ kỳ đá mới (néolithiqueférieur) tồn tại cách đây trên dưới 1 vạn năm. Văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn phân bố trên địa bàn rộng của Đông Nam á gồm cả Lào, Campuchia, Thái Lan, Mianma, Malaisia, đông Sumatra, song cuội nguồn là Việt Nam. Cư dân Hòa Bình - Bắc Sơn đã biết trồng trọt và Việt Nam cũng như Đông Nam á được coi là một trung tâm nông nghiệp vào loại sớm nhất của loài người bên cạnh trung tâm Trung Đông, Trung Mỹ, Pêru. Đó là bước mở đầu của "cuộc cách mạng đá mới" mà thành tựu chủ yếu là sự phát sinh nông nghiệp.
Văn hóa Sơn Vi (Vĩnh Phú) thuộc hậu kỳ thời đại đá cũ, có niên đại cách đây 11-18 nghìn năm, phân bố rất rộng trong các hang động và thềm sông cổ từ Lao Cai đến Nghệ An. Những nhóm cư dân nguyên thủy này sinh sống bằng hái lượm và săn bắt trong một hệ sinh thái miền nhiệt - ẩm với một thế giới động vật và thực vật phong phú, đa dạng.
Đến hậu kỳ đá mới cách đây khoảng 4-5 nghìn năm, các di tích văn hóa tiền sử phân bố rộng khắp lãnh thổ Việt Nam trên các địa hình khác nhau, từ Bắc chí Nam, từ miền núi rừng cao nguyên phía tây đến châu thổ ven biển và hải đảo phía đông đó là văn hóa Hạ Long (Quảng Ninh), văn hóa Bàu Tró (Quảng Bình), văn hóa Cầu Sắt (Đồng Nai)... và các di vật tìm thấyở hầu khắp mọi nơi. Đây cũng là thời kỳ biển lui và hình thành các đồng bằng châu thổ ven biển. Từ các miền gò đồi, miền chân núi, cư dân nguyên thủy tiến xuống chinh phục vùng châu thổ, phát triển nền nông nghiệp trồng lúa nước. Trên cơ sở kinh tế trồng lúa nước kết hợp cới các loại cây trồng khác, kết hợp với các nghề thủ công, với hái lượm, săn bắn chăn nuôi, đấnh cá, cuộc sống của con người dần dần ổn định với những xóm làng nông nghiệp định cư dựa trên qua hệ thị tộc mẫu hệ. Đó là cuội nguồn xa xưa của nền văn minh Việt Nam cổ truyền.
Thời kỳ dựng nước đời Hùng Vương và An Dương Vương
Từ thời đại đồ đá tiến lên thời đại kim khí - thời đại đồ đồng và đồ sắt - là một chuyển biến lớn lao của lịch sử nhân loại. Đó là thời kỳ cách mạng luyện kim, thời kỳ xuất hiện những nền văn minh và nhà nước đầu tiên, và cũng là thời kỳ mở đầu sự nghiệp dựng nước của dân tộc.
Trên lãnh thổ Việt Nam, nền văn minh sớm nhất là nền văn minh sông Hồng gắn liền với nền văn hóa Đông Sơn nổi tiếng, với quá trình hình thành nước Văn Lang đời Hùng Vương và nước Âu Lạc đời An Dương Vương
Di tích văn hóa Đông Sơn phân bố rộng khắp miền Bắc Việt Nam trên lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Lam. Văn hóa Đông Sơn tồn tại trong khoảng 7-8 thế kỷ trước công nguyên đến 1-2 thế kỷ sau công nguyên, thuộc thời kỳ thịnh đạt của đồ đồng và sơ kỳ đồ sắt. Đó là sự hội tụ của nhiều chặng đường dẫn đến Đông Sơn.
Trên lưu vực sông Hồng, khảo cổ học đã xác lập được một phổ hệ gồm 3 giai đoạn trước Đông Sơn diễn ra trong thiên kỷ 1 trước công nguyên:
Giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên thuộc sơ kỳ đồng thau.
Giai đoạn văn hóa Đồng Đậu thuộc trung kỳ đồng thau.
Giai đoạn văn hóa Gò Mun thuộc hậu kỳ đồng thau.
ở vùng đông bắc từ văn hóa Hạ Long ở vùng sông Mã từ văn hóa Hoa Lộc, Đông khối, ở vùng sông Lam từ văn hóa Bàu Tró, cũng có những giai đoạn văn hóa dẫn đến Đông Sơn.
Những dòng văn hóa đó có quan hệ giao lưu với nhau, nhưng cũng mang những dáng vẻ khác nhau phản ánh cuộc sống của những nhóm cư dân - bộ tộc hay liên minh bộ lạc - trên những địa bàn khác nhau. Đến văn hóa Đông Sơn thì các loại hình địa phương vẫn tồn tại nhưng tính thống nhất văn hóa trở nên bao trùm và chi phối. Dù thuộc di tích nào, ở địa phương nào, văn hóa Đông Sơn vẫn mang những đặc trưng chung biểu thị trong các loại hình di vật gồm công cụ (rìu, cuốc, xẻng, lưỡi cày...) vũ khi (rìu chiến, dao găm, mũi giáo, mũi tên...), đồ dùng vàoò trang sức (thạp, thổ, vòng tay, khuyên tai...) trong kỹ thuật chế tác và trong nghệ thuật trang trí. Di vật tiêu biểu nhất của văn hóa Đông Sơn là trống đồng Đông Sơn nổi tiếng (trống đồng loại 1 theo phân loại của Heger). Trống đồng tìm thấy trong một khu vực rộng lớn bao gồm cả miền Nam Trung Quốc, bán đảo Đông Dương, Thái Lan, Malaysia, nhưng miền Bắc Việt Nam được coi là một trung tâm phát sinh lớn nhất. Văn hóa Đông Sơn vừa có cội rễ bản địa, vừa qua giao lưu và hội nhập, tiếp thụ một số ảnh hưởng văn hóa bên ngoài từ phương bắc và từ phương nam.
Quá trình thống nhất văn hóa Đông Sơn cũng là quá trình liên kết các nhóm cư dân Việt cổ - người Lạc Việt và người Âu Việt - thành một cộng đồng quốc gia với một hình thái nhà nước sơ khai. Đó là nước Văn Lang đời Hùng Vương và tiếp theo là nước Âu Lạc đời An Dương Vương.
Đây là một thời đại để lại dấu ấn rất sâu đậm trong ký ức của nhân dân Việt Nam với bao huyền thoại và truyền thuyết lưu truyền rộng rãi trong dân gian từ đời này sang đời khác. Truyền thuyết Lạc Long Quân lấy Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng nở ra trăm con, được coi như tổ tiên chung của cộng đồng dân tộc.
Truyền thuyết trầu cau, bánh chưng, bánh dày, Sơn Tinh - Thủy Tinh, Thánh Dóng phá giặc Ân phản ánh cuộc sống lao động và chiến đấu của người Việt cổ. Ngày 10 thang 3 âm lịch được coi là ngày Giỗ tổ của cả dân tộc. Người Việt Nam từ bao đời nay vẫn luôn luôn nhắc nhở nhau :
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mồng mười tháng ba
Nước Văn Lang và Âu Lạc và ra đời trên một nền tảng kinh tế đã phát triển, chủ yếu là nông nghiệp trồng lúa nước đạt đến trình độ dùng lưỡi cày bằng đồng thau và sức kéo của trâu, bò. Chăn nuôi có chó, lợn, gà, vịt, trâu, bò, voi. Nghề thủ công có đúc đồng, luyện sắt, làm đồ gốm, đan lát , mộc, dệt, sơn... Nhà cửa, trang phục, nhiều phong tục tập quán, sinh hoạt văn hóa còn được ghi lại bằng hình ảnh trên các di vật Đông Sơn, nhất là trên trống đồng. Tiếp nối nước Văn Lang, nước Âu Lạc ra đời vào nửa sau thế kỷ III trước công nguyên, còn để lại dấu tích của kinh đô Cổ Loa (Đông Anh - Hà Nội) với ba vòng thành dài trên 16 km.
Văn Hóa Sa Huỳnh, ốc eo và sự ra đời của nước Champa, Phù Nam
Văn hóa Sa Huỳnh (Quảng Ngãi) phân bố trên địa bàn miền Trung từ nam đèo Hải Vân đến đông Nam Bộ. Các di tích văn hóa này thường được phát hiện trên vùng gò đồi và cồn cát ven biển, phát triển liên tục từ sơ kỳ đồng thau đến sơ kỳ đồ sắt, với thời gian tồn tại trong khoảng thiên niên kỷ 1, 2 trước công nguyên. Những di vật thường tìm thấy là mộ chum, đồ gốm tô màu đỏ và màu chì, đồ trang sức. Vào giai đoạn cuối, đồ sắt rất phát triển với các loại di vật như dao, rìu, thuổng... Văn hóa Sa Huỳnh có quan hệ giao lưu với văn hóa Đông Sơn ở phía bắc và lan tỏa ảnh hưởng sang Thái Lan và vùng hải đảo.
Cư dân Sa Huỳnh biết trồng lúa nước và các loại cây ăn quả, biết luyện kim, làm đồ gốm, dệt vải kết hợp với nghề rừng, nghề biển.
Văn hóa Sa Huỳnh là cơ sở dẫn đến sự thành lập nước Champa cổ vào thế kỷ đầu công nguyên.
Văn hóa ốc Eo là một nền văn hóa nổi tiếng ở miền Nam Việt Nam. Trên lưu vực sông Đồng Nai và sông Vàm Cỏ, những thập kỷ gần đây đã phát hiện một hệ thống di tích khảo cổ học, cũng phát triển tuần tự từ sơ kỳ đồng thau đến sơ kỳ đồ sắt trong khoảng thiên niên kỷ 2 đến vài thế kỷ trước công nguyên. Tiếp theo đó, vào những thế kỷ đầu công nguyên, văn hóa ốc Eo ra đời và để lại một loạt di tích trải rộng từ miền tây Hậu Giang qua vùng Đồng Tháp Mười đén thượng lưu sông Đồng Nai. Đó là những di tích kiến trúc tôn giáo như đền tháp (chỉ còn nền móng), di tích mộ táng, di chỉ cư trú với dấu tích cọc gỗ của nhà sàn...
Những di tích ấy chứa đựng nhiều vật liệu kiến trúc bằng gạch đá, nhiều đồ gốm cùng rất nhiều đồ trang sức bằng đá quý, vàng, bạc chạm khắc tinh vi, những tượng bằng gỗ, đất nung, đồng thau ; những con dấu, đồng tiền và những lá vàng có khắc chữ cổ. Trong những di tích gần ven biển cổ còn tìm thấy những di vật ngoại nhập như tượng và đồ trang sức mang đậm phong cách ấn Độ, nhưng gương đồng Trung Quốc đời Đông Hán, những huy chương Antonius (152), Marius Aurelius (161-180) của La Mã văn hóa ốc Eo hướng ra biển Đông và có quan hệ giao lưu mật thiết với Trung Quốc, ấn Độ và với cả thế giới La Mã.
Văn hóa ốc Eo tồn tại từ đầu công nguyên đến thế kỷ VI, VII. Đó là dấu tích của vương quốc một thời thịnh đạt được sử sách ghi chép với tên gọi là nước Phù Nam, có thể bao gồm nhiều tiểu quốc.
Đông Sơn cùng Sa Huỳnh, ốc Eo là ba trung tâm văn minh sớm nhất trên lãnh thổ Việt nam thời cổ đại. Những nước Văn Lang - Âu Lạc, Champa, Phù Nam trải qua nhiều biến thiên lịch sử, cuối cùng đã hội nhập vào lịch sử Việt Nam mà dòng chảy chủ lưu là Văn Lang - Việt Nam
Hơn Nghìn Năm Thách Thức và Quật Khởi
Khi các tộc người trên lãnh thổ Việt Nam vừa mới hình thành nhà nước thì ở phương bắc đế chế Tần (221-206 trước công nguyên) thành lập và bắt đầu bành trướng xuống phương nam.
Cư dân Văn Lang - Âu Lạc đã bền bỉ chiến đấu chống lại cuộc xâm lược đại quy mô của đé chế Tần, giữ yên bờ cõi. Chính trong cuộc kháng chiến này, người Lạc Việt và người Âu Việt đã thắt chặt quan hệ liên kết, và từ nước Văn Lang lập ra nước Âu Lạc. Người chỉ huy cuộc kháng chiến thắng lợi là Thục Phán trở thành vua nưóc Âu Lạc với danh hiệu An Dương Vương.
Nhưng đến năm 179 trước công nguyên, nước Âu Lạc bị Triệu Đà - vua nước Nam Việt ở Nam Trung Quốc -thôn tính. Từ đó người Việt bị chìm đắm trong một thời kỳ mất nước kéo dài hơn nghìn năm (179 trước công nguyên - 938). Các triều đại Trung Quốc từ Hán (206 trước công nguyên - 220) đến Tùy (581 - 618), Đường (618 - 907) đã áp dụng nhiều thủ đoạn đàn áp nhằm dập tắt ngọn lửa đấu tranh của người Việt và thục hiện nhiều chính sách đồng hóa nhằm sáp nhập đất nước Âu Lạc vào lãnh thổ Trung Quốc. Năm 111 trước công nguyên, triều Hán thôn tính nước Champa, mở rộng đé chế vào đến nam Trung Bộ.
Sau nhiều cuộc khởi nghĩa, người Chăm giành lại đất nước và thành lập nước Champa độc lập vào cuối thế kỷ thứ II. Cuộc đấu tranh của người Việt lâu dài và gian nan hơn nhiều.
Mùa xuân năm 40, dưới sự lãnh đạo củ hai nữ anh hùng Trưng Trắc, Trưng Nhị, cuộc khởi nghĩa của người Việt thắng lợi. Chính quyền độc lập Trưng Vương ra đời, nhưng 2 năm sau, cuộc kháng chiến bị thất bại.
Tiếp theo đó, nhiều cuộc khởi nghĩa bùng nổ, nhưng hoặc bị đàn áp, hoặc giành lại được chính quyền một thời gian rồi bị thất bại. Đó là khởi nghĩa Bà Triệu (248), khởi nghĩa Lý Bí (542), khởi nghĩa Mai Thúc Loan (722), khởi nghĩa Phùng Hưng (767)... Khởi nghĩa Lý Bí cũng đã thắng lợi, lập ra nước Vạn Xuân độc lập, nhưng rồi cuối cùng bị thất bại (602).
Vào thế kỷ thứ X, Khúc Thừa Dụ khởi nghĩa thành công, lập ra chính quyền tự chủ họ Khúc (905-930) rồi chuyển sang chính quyền tự chủ họ Dương (931-937) dẫn đến chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo năm 938 đánh bại cuộc xâm lược của quân Nam Hán. Đén đây thì sự nghiệp giải phóng đất nước mới giành được thắng lợi quyết định, chấm dứt hơn 10 thế kỷ Bắc thuộc.
Mất nước hơn nghìn năm mà không bị đồng hóa và cuối cùng tự đấu tranh giành lại chủ quyền, đó là trường hợp hiếm có trong lịch sử. Nguyên nhân giải thích thành công đó là, một mặt, trước Bắc thuộc, nước Văn Lang - Âu Lạc đã là một thực thể quốc gia đạt đến trình độ văn minh và cố kết cộng đồng bền chặt. Mặt khác, dưới nền thống trị nước ngoài, người Việt biết gìn giữ và phát huy vốn văn hóa cổ truyền đồng thời biết tiếp thụ và tiêu hóa những thành tựu văn hóa bên ngoài, kể cả của nước xâm lược, để tăng thêm tiềm lực của đất nước. Trong thời kỳ này, từ Trung Quốc, Nho Giáo, Đạo Giáo, chữ Hán, nghề làm giấy, một số kỹ thuật nông nghiệp... , và từ ấn Độ. phật giáo, kỹ thuật chế thủy tinh, hương liệu... đã truyền vào Việt Nam. Vào đầu công nguyên, Luy Lâu (Hà Bắc) trở thành một trung tâm Phật giáo do các sư tăng ấn Độ trực tiếp truyền bá bằng đường biển trước khi Phật giáo thịnh đạt ở Trung Quốc ảnh hưởng xuống phía nam.
Trong cuộc đấu tranh chống Bắc thuộc, làng xã người Việt giữ một vai trò trọng yếu. Đó là thế giới riêng của người Việt với những quan hệ cộng đồng chặt, tính tự trị cao mà chính quyền đô hộ Trung Quốc không thể nào can thiệp và chi phối được. Trong làng xã, người Việt bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống, tiếp thu có gạn lọc những yếu tố văn hóa ngoại nhập phù hợp với cuộc sống của mình và liên kết lại trong cuộc đấu tranh giành lại đất nước. Có nhà sử học đã nhận xét rằng, trong hơn nghìn năm Bắc thuộc, Việt Nam mất nước nhưng không mất làng, và chính các làng tự trị đó là những "pháo đài xanh" phát huy hiệu quả to lớn trong cuộc đấu tranh gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc và giải phóng dân tộc.
Kỷ Nguyên Văn Minh Đại Việt
Sau khi giành lại độc lập, trong thế kỷ thứ X, đất nước còn đứng trước nhiều khó khăn do hâạu quả hơn nghìn năm Bắc thuộc để lại. Dưới các vương triều Ngô (939-965), Đinh (969-979), Tiền Lê (980-1009), chính quyền độc lập còn non trẻ, các thế lực cát cứ nhiều lần trỗi dậy, đặc biệt quan trọng là loạn Mười hai sứ quân (965-968) đã làm sụp đổ triều Ngô. Từ phương Bắc, triều Tống (960-1279) cũng lăm le xâm lược. Cuộc kháng chiến chống Tống do Lê Hoàn lãnh đạo đã khẳng định chủ quyền quốc gia và cuộc đấu tranh dẹp loạn Mười hai sứ quân của Đinh Bộ Lĩnh đã xác lập nền thống nhất đất nước. Đó là những thắng lợi trọng đại tạo lập điều kiện đưa đất nước bước vào thời kỳ phục hưng và phát triển mạnh mẽ dưới các vương triều Lý (1010-1225), Trần (1226-1400), Hồ (1400-1407), và Lê (1428-1527) với tên nước Đại Việt (Đại ngu dưới triều Hồ) và kinh thành Thăng Long (Hà Nội). Đó là kỷ nguyên văn minh Đại Việt và nền văn hóa Thăng Long rực rỡ trong lịch sử Việt Nam.
Nông nghiệp trồng lúa nước vẫn là nền tảng của văn minh Đại Việt. Nhiều công trình khai hoang của nhà nước (đồn điền), của quý tộc (trang trại, điền trang) và của nông dân (lập làng) được thực hiện thành công, mở rộng đất đai trồng trọt và xóm làng xuống vùng đồng bằng ven biển, vùng trung du và miền đất chưa khai phá phía nam. Hệ thống đê sông, đê biển do nhà nước quản lý được xây dựng quy mô lớn và hàng năm được bồi trúc, bảo vệ tốt. Nhiều kênh đào được mở mang để phát triển giao thông đường thủy và để tưới tiêu cho đồng ruộng.
Trong nông thôn nhiều làng thủ công nghiệp ra đời và hệ thống chợ làng phát triển. Cùng với nông dân, tầng lớp thợ thủ công, thương nhân có xu hướng tăng nhanh, nhưng cuộc sống vẫn gắn bó với nông nghiệp. Trong quan hệ buôn bán với trong nước và nước ngoài, một số thành thị và thương cảng trở nên phồn thịnh, tiêu biểu là Thăng Long (Hà Nội) và Vân Đồn (ngoài hải đảo, Quảng ninh).
Trong hoàn cảnh độc lập và phát triển, nền văn hóa dân tộc cùng bước vào thời kỳ phục hưng. Di sản văn hóa cổ truyền được kế thừa và nâng cao trên cơ sở lao động sáng tạo của nhân dân và giao lưu văn hóa với nước ngoài. Nền văn hóa Thăng Long đã cống hiến nhiều công trình và nhiều tên tuổi làm phong phú và rạng rỡ nền văn hóa dân tộc.
Trong thời Lý, Trần, Phật giáo cùng Đạo giáo, Nho giáo đều được tôn trọng trong tinh thần bao dung tôn giáo của vương triều và của nhân dân. Ngoài ra các dòng Phật giáo du nhập từ bên ngoài, vua Trần Nhân Tông sáng lập ra phái Trúc Lâm là một thiền phái Việt Nam. Cuối Trần, một số trí thức Nho giáo bắt đầu bài xích Phật giáo, và sang thời Lê, Nho giáo được đưa lên địa vị độc tôn. Đó cũng là lúc chế độ quân chủ tập quyền chuyển sang mô hình Nho Giáo.
Nền giáo dục và thi cử cũng bắt đầu được xây dựng từ thời Lý với việc mở khoa thi đầu tiên năm 1075 và lập Quốc Tử Giám năm 1076. Chữ Hán được sử dụng như chữ viết chính thức của vương triều, nhưng từ chữ Hán, người Việt sáng tạo ra chữ Nôm để ghi lại tiếng Việt, Văn học chữ Hán, chữ Nôm đồng thời phát triển và để lại nhiều tác phẩm gắn liền với tên tuổi nhiều danh nhânvăn hóa, tiêu biểu là Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trương Hán Siêu, Nguyễn Trãi... Bộ quốc sử đầu tiên mang tên Đại Việt sử ký được Lê Văn Hưu biên soạn và hoàn thành năm 1272.
Văn hòa dân gian là cơ sở chủ yếu của văn hóa dân tộc cũng được hồi sinh và phát triển gắn liền với nhiều sinh hoạt phong phú, đa dạng của các làng xã. Hội làng thường được tổ chức vào mùa xuân và mùa thu là dịp biểu thị tập trung các sinh hoạt văn hóa dân gian như đua thuyền, đấu vật chọi gà, ném còn, đánh phết, trình diễn hát chèo, hát tuồng, múa rối nước... Múa rối nước là một nghệ thuật sân khấu dân gian độc đáo của xứ sở sông nước, ao đầm và của nông nghiệp lúa nước, chỉ tìm thấy ở Việt Nam và đã phát triển mạnh từ đời Lý.
Trong 5 thế kỷ phục hưng này, nước Đại Việt cũng phải nhiều phen cầm vũ khí chống ngoại xâm, lập nên nhiều vũ công hiển hách. Đó là kháng chiến chống Tống lần thứ II (1075-1077) dưới triều Lý do Lý Thường Kiệt lãnh đạo, ba lần kháng chiến chống Mông - Nguyên (1258, 1285, 1287-1288) dưới triều Trần và vị thống soái kiệt xuất là Trần Quốc Tuấn. Bài thơ của Lý Thường Kiệt ra đời trong kháng chiến chống Tống được coi như bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc.
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên phận định tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Kháng chiến chống Minh năm 1406-1407 do triều Hồ lãnh đạo bị thất bại và mất nước bị triều Minh đô hộ trong 20 năm (1407-1427). Nhưng trong thời Minh thuộc đó, nhân dân ĐạiViệt nổi dậy khởi nghĩa gần như liên tục, và cuối cùng, khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427) do Lê Lợi - Nguyễn Trãi tổ chức và lãnh đạo đã hoàn thành sứ mạng giải phóng dân tộc, bảoảmm cho đất nước tiếp tục những trang sử của kỷ nguyên văn minh Đại Việt. Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi nêu cao ước vọng của dân tộc : "mở nền muôn thuở thái bình"
Kỷ nguyên Đại Việt đã để lại những thành tựu trên cả hai lĩnh vực xây dựng và bảo vệ đất nước, vừa rực rỡ văn trị, vừa chói lọi võ công. Đó cũng là thời kỳ nâng cao cố kết dân tộc, tổng thành của ý thức dân tộc và định hình tính cách dân tộc Việt Nam.
Theo datviet.com
Trên sườn núi Đọ - Thanh Hóa (còn có các tranh luận về niên đại của di tích này) và tại các địa điểm Hang Gòn, Dầu Dây (Đồng Nai), đã phát hiện được những công cụ đá thô sơ của sơ kỳ thời đại đá cũ. Di cốt người vượn (archanthropus) cũng đã tìm thấy trong hang Thẩm Hai và Thẩm Khuyên (Lạng Sơn). Đó là những chiếc răng hóa thạch có những đặc điểm gần với răng người vượn Bắc Kinh (Sinanthropus pekinensis), nằm trong di cốt một quần động vật thời kỳ trung kỳ cách tân (Pléistocène) cách ngày nay khoảng 30 vạn dặm. Như vậy cách đây hàng chục vạn năm, đã có những bầy người vượn sinh sống rải rác trên ba miền Bắc, Trung, Nam Việt Nam.
Tại hang Thẩm ồm (Nghệ An), tìm thấy răng hóa thạch của một loài người vượn sống cách ngày nay 14-25 vạn năm, đang trên quá trình tiến hóa từ người đứng thẳng (homo erectus) lên người hiện đại (homo sapiens).
Tiếp theo đó, di cốt người hiện đại đã được phát hiện ở hang Hùm (Yên Bái) có niên đại 8-14 vạn năm, rồi ở Kéo Lèng (Lạng Sơn), Soi Nhụ (Quảng Ninh), Thung Lang (Ninh Bình. Những phát hiện trên cho thấy quá trình chuyển hóa từ người vượn thành người hiện đại diễn ra khá sớm trên lãnh thổ Việt Nam. Đó là những trang mở đầu của lịch sử thời nguyên thủy Việt Nam.
Từ văn hóa Sơn Vi phát triển lên văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn thuộc thời kỳ nguyên đá mới (protonéolithique) và sơ kỳ đá mới (néolithiqueférieur) tồn tại cách đây trên dưới 1 vạn năm. Văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn phân bố trên địa bàn rộng của Đông Nam á gồm cả Lào, Campuchia, Thái Lan, Mianma, Malaisia, đông Sumatra, song cuội nguồn là Việt Nam. Cư dân Hòa Bình - Bắc Sơn đã biết trồng trọt và Việt Nam cũng như Đông Nam á được coi là một trung tâm nông nghiệp vào loại sớm nhất của loài người bên cạnh trung tâm Trung Đông, Trung Mỹ, Pêru. Đó là bước mở đầu của "cuộc cách mạng đá mới" mà thành tựu chủ yếu là sự phát sinh nông nghiệp.
Văn hóa Sơn Vi (Vĩnh Phú) thuộc hậu kỳ thời đại đá cũ, có niên đại cách đây 11-18 nghìn năm, phân bố rất rộng trong các hang động và thềm sông cổ từ Lao Cai đến Nghệ An. Những nhóm cư dân nguyên thủy này sinh sống bằng hái lượm và săn bắt trong một hệ sinh thái miền nhiệt - ẩm với một thế giới động vật và thực vật phong phú, đa dạng.
Đến hậu kỳ đá mới cách đây khoảng 4-5 nghìn năm, các di tích văn hóa tiền sử phân bố rộng khắp lãnh thổ Việt Nam trên các địa hình khác nhau, từ Bắc chí Nam, từ miền núi rừng cao nguyên phía tây đến châu thổ ven biển và hải đảo phía đông đó là văn hóa Hạ Long (Quảng Ninh), văn hóa Bàu Tró (Quảng Bình), văn hóa Cầu Sắt (Đồng Nai)... và các di vật tìm thấyở hầu khắp mọi nơi. Đây cũng là thời kỳ biển lui và hình thành các đồng bằng châu thổ ven biển. Từ các miền gò đồi, miền chân núi, cư dân nguyên thủy tiến xuống chinh phục vùng châu thổ, phát triển nền nông nghiệp trồng lúa nước. Trên cơ sở kinh tế trồng lúa nước kết hợp cới các loại cây trồng khác, kết hợp với các nghề thủ công, với hái lượm, săn bắn chăn nuôi, đấnh cá, cuộc sống của con người dần dần ổn định với những xóm làng nông nghiệp định cư dựa trên qua hệ thị tộc mẫu hệ. Đó là cuội nguồn xa xưa của nền văn minh Việt Nam cổ truyền.
Thời kỳ dựng nước đời Hùng Vương và An Dương Vương
Từ thời đại đồ đá tiến lên thời đại kim khí - thời đại đồ đồng và đồ sắt - là một chuyển biến lớn lao của lịch sử nhân loại. Đó là thời kỳ cách mạng luyện kim, thời kỳ xuất hiện những nền văn minh và nhà nước đầu tiên, và cũng là thời kỳ mở đầu sự nghiệp dựng nước của dân tộc.
Trên lãnh thổ Việt Nam, nền văn minh sớm nhất là nền văn minh sông Hồng gắn liền với nền văn hóa Đông Sơn nổi tiếng, với quá trình hình thành nước Văn Lang đời Hùng Vương và nước Âu Lạc đời An Dương Vương
Di tích văn hóa Đông Sơn phân bố rộng khắp miền Bắc Việt Nam trên lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Lam. Văn hóa Đông Sơn tồn tại trong khoảng 7-8 thế kỷ trước công nguyên đến 1-2 thế kỷ sau công nguyên, thuộc thời kỳ thịnh đạt của đồ đồng và sơ kỳ đồ sắt. Đó là sự hội tụ của nhiều chặng đường dẫn đến Đông Sơn.
Trên lưu vực sông Hồng, khảo cổ học đã xác lập được một phổ hệ gồm 3 giai đoạn trước Đông Sơn diễn ra trong thiên kỷ 1 trước công nguyên:
Giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên thuộc sơ kỳ đồng thau.
Giai đoạn văn hóa Đồng Đậu thuộc trung kỳ đồng thau.
Giai đoạn văn hóa Gò Mun thuộc hậu kỳ đồng thau.
ở vùng đông bắc từ văn hóa Hạ Long ở vùng sông Mã từ văn hóa Hoa Lộc, Đông khối, ở vùng sông Lam từ văn hóa Bàu Tró, cũng có những giai đoạn văn hóa dẫn đến Đông Sơn.
Những dòng văn hóa đó có quan hệ giao lưu với nhau, nhưng cũng mang những dáng vẻ khác nhau phản ánh cuộc sống của những nhóm cư dân - bộ tộc hay liên minh bộ lạc - trên những địa bàn khác nhau. Đến văn hóa Đông Sơn thì các loại hình địa phương vẫn tồn tại nhưng tính thống nhất văn hóa trở nên bao trùm và chi phối. Dù thuộc di tích nào, ở địa phương nào, văn hóa Đông Sơn vẫn mang những đặc trưng chung biểu thị trong các loại hình di vật gồm công cụ (rìu, cuốc, xẻng, lưỡi cày...) vũ khi (rìu chiến, dao găm, mũi giáo, mũi tên...), đồ dùng vàoò trang sức (thạp, thổ, vòng tay, khuyên tai...) trong kỹ thuật chế tác và trong nghệ thuật trang trí. Di vật tiêu biểu nhất của văn hóa Đông Sơn là trống đồng Đông Sơn nổi tiếng (trống đồng loại 1 theo phân loại của Heger). Trống đồng tìm thấy trong một khu vực rộng lớn bao gồm cả miền Nam Trung Quốc, bán đảo Đông Dương, Thái Lan, Malaysia, nhưng miền Bắc Việt Nam được coi là một trung tâm phát sinh lớn nhất. Văn hóa Đông Sơn vừa có cội rễ bản địa, vừa qua giao lưu và hội nhập, tiếp thụ một số ảnh hưởng văn hóa bên ngoài từ phương bắc và từ phương nam.
Quá trình thống nhất văn hóa Đông Sơn cũng là quá trình liên kết các nhóm cư dân Việt cổ - người Lạc Việt và người Âu Việt - thành một cộng đồng quốc gia với một hình thái nhà nước sơ khai. Đó là nước Văn Lang đời Hùng Vương và tiếp theo là nước Âu Lạc đời An Dương Vương.
Đây là một thời đại để lại dấu ấn rất sâu đậm trong ký ức của nhân dân Việt Nam với bao huyền thoại và truyền thuyết lưu truyền rộng rãi trong dân gian từ đời này sang đời khác. Truyền thuyết Lạc Long Quân lấy Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng nở ra trăm con, được coi như tổ tiên chung của cộng đồng dân tộc.
Truyền thuyết trầu cau, bánh chưng, bánh dày, Sơn Tinh - Thủy Tinh, Thánh Dóng phá giặc Ân phản ánh cuộc sống lao động và chiến đấu của người Việt cổ. Ngày 10 thang 3 âm lịch được coi là ngày Giỗ tổ của cả dân tộc. Người Việt Nam từ bao đời nay vẫn luôn luôn nhắc nhở nhau :
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mồng mười tháng ba
Nước Văn Lang và Âu Lạc và ra đời trên một nền tảng kinh tế đã phát triển, chủ yếu là nông nghiệp trồng lúa nước đạt đến trình độ dùng lưỡi cày bằng đồng thau và sức kéo của trâu, bò. Chăn nuôi có chó, lợn, gà, vịt, trâu, bò, voi. Nghề thủ công có đúc đồng, luyện sắt, làm đồ gốm, đan lát , mộc, dệt, sơn... Nhà cửa, trang phục, nhiều phong tục tập quán, sinh hoạt văn hóa còn được ghi lại bằng hình ảnh trên các di vật Đông Sơn, nhất là trên trống đồng. Tiếp nối nước Văn Lang, nước Âu Lạc ra đời vào nửa sau thế kỷ III trước công nguyên, còn để lại dấu tích của kinh đô Cổ Loa (Đông Anh - Hà Nội) với ba vòng thành dài trên 16 km.
Văn Hóa Sa Huỳnh, ốc eo và sự ra đời của nước Champa, Phù Nam
Văn hóa Sa Huỳnh (Quảng Ngãi) phân bố trên địa bàn miền Trung từ nam đèo Hải Vân đến đông Nam Bộ. Các di tích văn hóa này thường được phát hiện trên vùng gò đồi và cồn cát ven biển, phát triển liên tục từ sơ kỳ đồng thau đến sơ kỳ đồ sắt, với thời gian tồn tại trong khoảng thiên niên kỷ 1, 2 trước công nguyên. Những di vật thường tìm thấy là mộ chum, đồ gốm tô màu đỏ và màu chì, đồ trang sức. Vào giai đoạn cuối, đồ sắt rất phát triển với các loại di vật như dao, rìu, thuổng... Văn hóa Sa Huỳnh có quan hệ giao lưu với văn hóa Đông Sơn ở phía bắc và lan tỏa ảnh hưởng sang Thái Lan và vùng hải đảo.
Cư dân Sa Huỳnh biết trồng lúa nước và các loại cây ăn quả, biết luyện kim, làm đồ gốm, dệt vải kết hợp với nghề rừng, nghề biển.
Văn hóa Sa Huỳnh là cơ sở dẫn đến sự thành lập nước Champa cổ vào thế kỷ đầu công nguyên.
Văn hóa ốc Eo là một nền văn hóa nổi tiếng ở miền Nam Việt Nam. Trên lưu vực sông Đồng Nai và sông Vàm Cỏ, những thập kỷ gần đây đã phát hiện một hệ thống di tích khảo cổ học, cũng phát triển tuần tự từ sơ kỳ đồng thau đến sơ kỳ đồ sắt trong khoảng thiên niên kỷ 2 đến vài thế kỷ trước công nguyên. Tiếp theo đó, vào những thế kỷ đầu công nguyên, văn hóa ốc Eo ra đời và để lại một loạt di tích trải rộng từ miền tây Hậu Giang qua vùng Đồng Tháp Mười đén thượng lưu sông Đồng Nai. Đó là những di tích kiến trúc tôn giáo như đền tháp (chỉ còn nền móng), di tích mộ táng, di chỉ cư trú với dấu tích cọc gỗ của nhà sàn...
Những di tích ấy chứa đựng nhiều vật liệu kiến trúc bằng gạch đá, nhiều đồ gốm cùng rất nhiều đồ trang sức bằng đá quý, vàng, bạc chạm khắc tinh vi, những tượng bằng gỗ, đất nung, đồng thau ; những con dấu, đồng tiền và những lá vàng có khắc chữ cổ. Trong những di tích gần ven biển cổ còn tìm thấy những di vật ngoại nhập như tượng và đồ trang sức mang đậm phong cách ấn Độ, nhưng gương đồng Trung Quốc đời Đông Hán, những huy chương Antonius (152), Marius Aurelius (161-180) của La Mã văn hóa ốc Eo hướng ra biển Đông và có quan hệ giao lưu mật thiết với Trung Quốc, ấn Độ và với cả thế giới La Mã.
Văn hóa ốc Eo tồn tại từ đầu công nguyên đến thế kỷ VI, VII. Đó là dấu tích của vương quốc một thời thịnh đạt được sử sách ghi chép với tên gọi là nước Phù Nam, có thể bao gồm nhiều tiểu quốc.
Đông Sơn cùng Sa Huỳnh, ốc Eo là ba trung tâm văn minh sớm nhất trên lãnh thổ Việt nam thời cổ đại. Những nước Văn Lang - Âu Lạc, Champa, Phù Nam trải qua nhiều biến thiên lịch sử, cuối cùng đã hội nhập vào lịch sử Việt Nam mà dòng chảy chủ lưu là Văn Lang - Việt Nam
Hơn Nghìn Năm Thách Thức và Quật Khởi
Khi các tộc người trên lãnh thổ Việt Nam vừa mới hình thành nhà nước thì ở phương bắc đế chế Tần (221-206 trước công nguyên) thành lập và bắt đầu bành trướng xuống phương nam.
Cư dân Văn Lang - Âu Lạc đã bền bỉ chiến đấu chống lại cuộc xâm lược đại quy mô của đé chế Tần, giữ yên bờ cõi. Chính trong cuộc kháng chiến này, người Lạc Việt và người Âu Việt đã thắt chặt quan hệ liên kết, và từ nước Văn Lang lập ra nước Âu Lạc. Người chỉ huy cuộc kháng chiến thắng lợi là Thục Phán trở thành vua nưóc Âu Lạc với danh hiệu An Dương Vương.
Nhưng đến năm 179 trước công nguyên, nước Âu Lạc bị Triệu Đà - vua nước Nam Việt ở Nam Trung Quốc -thôn tính. Từ đó người Việt bị chìm đắm trong một thời kỳ mất nước kéo dài hơn nghìn năm (179 trước công nguyên - 938). Các triều đại Trung Quốc từ Hán (206 trước công nguyên - 220) đến Tùy (581 - 618), Đường (618 - 907) đã áp dụng nhiều thủ đoạn đàn áp nhằm dập tắt ngọn lửa đấu tranh của người Việt và thục hiện nhiều chính sách đồng hóa nhằm sáp nhập đất nước Âu Lạc vào lãnh thổ Trung Quốc. Năm 111 trước công nguyên, triều Hán thôn tính nước Champa, mở rộng đé chế vào đến nam Trung Bộ.
Sau nhiều cuộc khởi nghĩa, người Chăm giành lại đất nước và thành lập nước Champa độc lập vào cuối thế kỷ thứ II. Cuộc đấu tranh của người Việt lâu dài và gian nan hơn nhiều.
Mùa xuân năm 40, dưới sự lãnh đạo củ hai nữ anh hùng Trưng Trắc, Trưng Nhị, cuộc khởi nghĩa của người Việt thắng lợi. Chính quyền độc lập Trưng Vương ra đời, nhưng 2 năm sau, cuộc kháng chiến bị thất bại.
Tiếp theo đó, nhiều cuộc khởi nghĩa bùng nổ, nhưng hoặc bị đàn áp, hoặc giành lại được chính quyền một thời gian rồi bị thất bại. Đó là khởi nghĩa Bà Triệu (248), khởi nghĩa Lý Bí (542), khởi nghĩa Mai Thúc Loan (722), khởi nghĩa Phùng Hưng (767)... Khởi nghĩa Lý Bí cũng đã thắng lợi, lập ra nước Vạn Xuân độc lập, nhưng rồi cuối cùng bị thất bại (602).
Vào thế kỷ thứ X, Khúc Thừa Dụ khởi nghĩa thành công, lập ra chính quyền tự chủ họ Khúc (905-930) rồi chuyển sang chính quyền tự chủ họ Dương (931-937) dẫn đến chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo năm 938 đánh bại cuộc xâm lược của quân Nam Hán. Đén đây thì sự nghiệp giải phóng đất nước mới giành được thắng lợi quyết định, chấm dứt hơn 10 thế kỷ Bắc thuộc.
Mất nước hơn nghìn năm mà không bị đồng hóa và cuối cùng tự đấu tranh giành lại chủ quyền, đó là trường hợp hiếm có trong lịch sử. Nguyên nhân giải thích thành công đó là, một mặt, trước Bắc thuộc, nước Văn Lang - Âu Lạc đã là một thực thể quốc gia đạt đến trình độ văn minh và cố kết cộng đồng bền chặt. Mặt khác, dưới nền thống trị nước ngoài, người Việt biết gìn giữ và phát huy vốn văn hóa cổ truyền đồng thời biết tiếp thụ và tiêu hóa những thành tựu văn hóa bên ngoài, kể cả của nước xâm lược, để tăng thêm tiềm lực của đất nước. Trong thời kỳ này, từ Trung Quốc, Nho Giáo, Đạo Giáo, chữ Hán, nghề làm giấy, một số kỹ thuật nông nghiệp... , và từ ấn Độ. phật giáo, kỹ thuật chế thủy tinh, hương liệu... đã truyền vào Việt Nam. Vào đầu công nguyên, Luy Lâu (Hà Bắc) trở thành một trung tâm Phật giáo do các sư tăng ấn Độ trực tiếp truyền bá bằng đường biển trước khi Phật giáo thịnh đạt ở Trung Quốc ảnh hưởng xuống phía nam.
Trong cuộc đấu tranh chống Bắc thuộc, làng xã người Việt giữ một vai trò trọng yếu. Đó là thế giới riêng của người Việt với những quan hệ cộng đồng chặt, tính tự trị cao mà chính quyền đô hộ Trung Quốc không thể nào can thiệp và chi phối được. Trong làng xã, người Việt bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống, tiếp thu có gạn lọc những yếu tố văn hóa ngoại nhập phù hợp với cuộc sống của mình và liên kết lại trong cuộc đấu tranh giành lại đất nước. Có nhà sử học đã nhận xét rằng, trong hơn nghìn năm Bắc thuộc, Việt Nam mất nước nhưng không mất làng, và chính các làng tự trị đó là những "pháo đài xanh" phát huy hiệu quả to lớn trong cuộc đấu tranh gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc và giải phóng dân tộc.
Kỷ Nguyên Văn Minh Đại Việt
Sau khi giành lại độc lập, trong thế kỷ thứ X, đất nước còn đứng trước nhiều khó khăn do hâạu quả hơn nghìn năm Bắc thuộc để lại. Dưới các vương triều Ngô (939-965), Đinh (969-979), Tiền Lê (980-1009), chính quyền độc lập còn non trẻ, các thế lực cát cứ nhiều lần trỗi dậy, đặc biệt quan trọng là loạn Mười hai sứ quân (965-968) đã làm sụp đổ triều Ngô. Từ phương Bắc, triều Tống (960-1279) cũng lăm le xâm lược. Cuộc kháng chiến chống Tống do Lê Hoàn lãnh đạo đã khẳng định chủ quyền quốc gia và cuộc đấu tranh dẹp loạn Mười hai sứ quân của Đinh Bộ Lĩnh đã xác lập nền thống nhất đất nước. Đó là những thắng lợi trọng đại tạo lập điều kiện đưa đất nước bước vào thời kỳ phục hưng và phát triển mạnh mẽ dưới các vương triều Lý (1010-1225), Trần (1226-1400), Hồ (1400-1407), và Lê (1428-1527) với tên nước Đại Việt (Đại ngu dưới triều Hồ) và kinh thành Thăng Long (Hà Nội). Đó là kỷ nguyên văn minh Đại Việt và nền văn hóa Thăng Long rực rỡ trong lịch sử Việt Nam.
Nông nghiệp trồng lúa nước vẫn là nền tảng của văn minh Đại Việt. Nhiều công trình khai hoang của nhà nước (đồn điền), của quý tộc (trang trại, điền trang) và của nông dân (lập làng) được thực hiện thành công, mở rộng đất đai trồng trọt và xóm làng xuống vùng đồng bằng ven biển, vùng trung du và miền đất chưa khai phá phía nam. Hệ thống đê sông, đê biển do nhà nước quản lý được xây dựng quy mô lớn và hàng năm được bồi trúc, bảo vệ tốt. Nhiều kênh đào được mở mang để phát triển giao thông đường thủy và để tưới tiêu cho đồng ruộng.
Trong nông thôn nhiều làng thủ công nghiệp ra đời và hệ thống chợ làng phát triển. Cùng với nông dân, tầng lớp thợ thủ công, thương nhân có xu hướng tăng nhanh, nhưng cuộc sống vẫn gắn bó với nông nghiệp. Trong quan hệ buôn bán với trong nước và nước ngoài, một số thành thị và thương cảng trở nên phồn thịnh, tiêu biểu là Thăng Long (Hà Nội) và Vân Đồn (ngoài hải đảo, Quảng ninh).
Trong hoàn cảnh độc lập và phát triển, nền văn hóa dân tộc cùng bước vào thời kỳ phục hưng. Di sản văn hóa cổ truyền được kế thừa và nâng cao trên cơ sở lao động sáng tạo của nhân dân và giao lưu văn hóa với nước ngoài. Nền văn hóa Thăng Long đã cống hiến nhiều công trình và nhiều tên tuổi làm phong phú và rạng rỡ nền văn hóa dân tộc.
Trong thời Lý, Trần, Phật giáo cùng Đạo giáo, Nho giáo đều được tôn trọng trong tinh thần bao dung tôn giáo của vương triều và của nhân dân. Ngoài ra các dòng Phật giáo du nhập từ bên ngoài, vua Trần Nhân Tông sáng lập ra phái Trúc Lâm là một thiền phái Việt Nam. Cuối Trần, một số trí thức Nho giáo bắt đầu bài xích Phật giáo, và sang thời Lê, Nho giáo được đưa lên địa vị độc tôn. Đó cũng là lúc chế độ quân chủ tập quyền chuyển sang mô hình Nho Giáo.
Nền giáo dục và thi cử cũng bắt đầu được xây dựng từ thời Lý với việc mở khoa thi đầu tiên năm 1075 và lập Quốc Tử Giám năm 1076. Chữ Hán được sử dụng như chữ viết chính thức của vương triều, nhưng từ chữ Hán, người Việt sáng tạo ra chữ Nôm để ghi lại tiếng Việt, Văn học chữ Hán, chữ Nôm đồng thời phát triển và để lại nhiều tác phẩm gắn liền với tên tuổi nhiều danh nhânvăn hóa, tiêu biểu là Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trương Hán Siêu, Nguyễn Trãi... Bộ quốc sử đầu tiên mang tên Đại Việt sử ký được Lê Văn Hưu biên soạn và hoàn thành năm 1272.
Văn hòa dân gian là cơ sở chủ yếu của văn hóa dân tộc cũng được hồi sinh và phát triển gắn liền với nhiều sinh hoạt phong phú, đa dạng của các làng xã. Hội làng thường được tổ chức vào mùa xuân và mùa thu là dịp biểu thị tập trung các sinh hoạt văn hóa dân gian như đua thuyền, đấu vật chọi gà, ném còn, đánh phết, trình diễn hát chèo, hát tuồng, múa rối nước... Múa rối nước là một nghệ thuật sân khấu dân gian độc đáo của xứ sở sông nước, ao đầm và của nông nghiệp lúa nước, chỉ tìm thấy ở Việt Nam và đã phát triển mạnh từ đời Lý.
Trong 5 thế kỷ phục hưng này, nước Đại Việt cũng phải nhiều phen cầm vũ khí chống ngoại xâm, lập nên nhiều vũ công hiển hách. Đó là kháng chiến chống Tống lần thứ II (1075-1077) dưới triều Lý do Lý Thường Kiệt lãnh đạo, ba lần kháng chiến chống Mông - Nguyên (1258, 1285, 1287-1288) dưới triều Trần và vị thống soái kiệt xuất là Trần Quốc Tuấn. Bài thơ của Lý Thường Kiệt ra đời trong kháng chiến chống Tống được coi như bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc.
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên phận định tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Kháng chiến chống Minh năm 1406-1407 do triều Hồ lãnh đạo bị thất bại và mất nước bị triều Minh đô hộ trong 20 năm (1407-1427). Nhưng trong thời Minh thuộc đó, nhân dân ĐạiViệt nổi dậy khởi nghĩa gần như liên tục, và cuối cùng, khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427) do Lê Lợi - Nguyễn Trãi tổ chức và lãnh đạo đã hoàn thành sứ mạng giải phóng dân tộc, bảoảmm cho đất nước tiếp tục những trang sử của kỷ nguyên văn minh Đại Việt. Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi nêu cao ước vọng của dân tộc : "mở nền muôn thuở thái bình"
Kỷ nguyên Đại Việt đã để lại những thành tựu trên cả hai lĩnh vực xây dựng và bảo vệ đất nước, vừa rực rỡ văn trị, vừa chói lọi võ công. Đó cũng là thời kỳ nâng cao cố kết dân tộc, tổng thành của ý thức dân tộc và định hình tính cách dân tộc Việt Nam.
Theo datviet.com
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Hà Tĩnh: Phát hiện cổ vật 5.000 năm
Ngày 26-5, Sở VH-TT Hà Tĩnh cho biết, hai ông Nguyễn Đình Hương và Cao Xuân Ngọc (xã Đức Đồng, huyện Đức Thọ) khi đào đất đắp nền nhà tại rú Chùa đã phát hiện một số hiện vật bằng đồng. Ông Nguyễn Văn Trương cùng xã cũng phát hiện 3 hiện vật bằng đồng tại rú Cấm.
Bước đầu các nhà khảo cổ địa phương xác định các hiện vật này là lưỡi cày vai nhọn, lưỡi thuổng, lưỡi xẻng, lưỡi rìu vai cân (ảnh). Các nhà khảo cổ nhận định lưỡi cày vai nhọn là loại hiếm gặp ở các di chỉ văn hóa Đông Sơn khác.
Các hiện vật trên bước đầu được xác định có niên đại khoảng 5.000 năm. Hai địa điểm phát hiện đều là đồi núi khá thấp, cao khoảng 50m so với mực nước biển, nằm bên hữu ngạn sông Ngàn Sâu.
Theo M.PH - Sài Gòn Giải Phóng
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Niên biểu lịch sử Việt Nam là hệ thống các sự kiện lịch sử Việt Nam nổi bật theo thời gian từ các thời tiền sử, huyền sử, cổ đại, trung đại, cận đại cho tới lịch sử hiện đại ngày nay.
Thời đại đồ đá cũ
- Người vượn Việt Nam. Di tích núi Đọ (30 vạn năm trước đây)
- Văn hóa Sơn Vi
Thời đại đồ đá mới
- Văn hóa Hòa Bình
- Văn hóa Bắc Sơn
- Văn hóa Quỳnh Văn
- Văn hóa Bàu Tró (5000 năm trước đây)
- Văn hóa Hạ Long
- Văn hóa Cù Lao Rùa (lưu vực sông Đồng Nai)
Thời kỳ bắt đầu dựng nước
Sự kiện | Thời gian |
---|---|
| |
| |
nửa đầu Thiên niên kỷ 2 TCN | |
nửa sau Thiên niên kỷ 2 TCN | |
cuối Thiên niên kỷ 2 TCN - đầu Thiên niên kỷ 1 TCN | |
Thiên niên kỷ 1 TCN | |
| 500 TCN - Thế kỷ 2 |
| nửa sau thế kỷ thứ 3 TCN |
| 179 TCN |
Thời kỳ phong kiến phương Bắc đô hộ, (179TCN ÷ 938)
Sự kiện | Thời gian |
---|---|
| 179 TCN - 111 TCN |
| 111 TCN - 25 |
| 1 - 630 |
| 25 - 226
|
226 - 280
| |
| 280 - 420 |
| 420 - 479 |
| 479 - 502 |
| 502 - 541 |
| 542 - 603 |
| 603 - 617
|
| 618 - 906
|
| 905 - 930 |
| 931 - 937 |
938 |
Chú thích: Các quốc gia cổ của người Chăm thời kỳ này chưa được coi là lịch sử của Việt Nam, nhưng cũng cần kể đến vì là lịch sử của các quốc gia này nằm hoàn toàn trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay và người Chăm là một trong những dân tộc của Việt Nam ngày nay.
Thời kỳ độc lập, (938 ÷ 1883)
Sự kiện | Thời gian |
---|---|
939 - 967
| |
| 968 - 980 |
980 - 1009
| |
| 1010 - 1225
|
| 1226 - 1400
|
1400 - 1407
| |
| 1407 - 1427
|
| 1428 - 1527
|
| 1527 - 1595 |
| 1533 - 1592 |
| 1570 - 1786
|
| 1786 - 1802
|
| 1802 - 1945
|
Thời kỳ thuộc Pháp (9-1858 ÷ 3-1945)
- 1858 ngày 1-9, mở đầu cuộc kháng chiến chống chủ nghĩa thực dân khi hạm đội Pháp - Tây Ban Nha nổ súng tiến công đánh chiếm bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng).
- Pháp xâm lược ba tỉnh miền Đông Nam kỳ.
- 1859 ngày 17-2 Pháp đánh chiếm tỉnh, thành Gia Định.
- 1861 ngày 10-12 Nguyễn Trung Trực đốt cháy tàu chiến Pháp trên sông Vàm Cỏ Đông tại địa phận thôn Nhật Tảo.
- 1861 ÷ 1864 Khởi nghĩa chống Pháp của Trương Định.
- 1862 ngày 5-6 Triều đình Huế ký Hiệp ước Nhâm Tuất cắt 3 tỉnh miền Đông lục tỉnh là Gia Định, Định Tường, Biên Hòa cho Pháp.
- 1864 ÷ 1865 Các cuộc khởi nghĩa chống Pháp của Trương Quyền, Thiên hộ Dương, Hồ Huân Nghiệp.
- 1866 ngày 16-9 Khởi nghĩa của Đoàn Hữu Trưng - Đoàn Trực chống triều đình Tự Đức (nhà Nguyễn).
- 1867 ÷ 1874 Pháp tiếp tục xâm lấn ba tỉnh miền Tây Nam kỳ, tiến tới chiếm đóng toàn bộ Nam kỳ.
- 1867 ngày 20-6 Pháp đơn phương ra tuyên bố 6 tỉnh Nam kỳ là lãnh địa của Pháp.
- 1868 Khởi nghĩa chống Pháp của Thủ khoa Huân, Phan Công Tôn.
- 1872 Khởi nghĩa chống Pháp của 18 thôn vườn trầu và ở 3 tỉnh miền Tây Nam kỳ.
- 1873 ÷ 1874 Pháp đánh Bắc kỳ lần thứ nhất.
- ngày 20-11 Pháp đánh Hà Nội lần thứ nhất.
- 1874 tháng 2 Khởi nghĩa của Trần Tấn, Đặng Như Mai chống triều đình Huế thỏa hiệp với giặc Pháp.
- Khởi nghĩa Văn thân Nghệ Tĩnh.
- ngày 15-3 Triều đình Huế ký Hiệp ước với Pháp, chấp nhận chủ quyền của Pháp đối với tỉnh Bình Thuận trở vào (toàn bộ Nam kỳ) để Pháp rút khỏi Bắc kỳ.
- ngày 31-8 Triều đình Huế ký Hiệp ước thương mại với Pháp tại Sài Gòn.
- 1882 ÷ 1883 Pháp đánh Bắc kỳ lần thứ hai, hoàn thành xâm lược Bắc kỳ.
- ngày 25-4 Pháp đánh chiếm Hà Nội lần thứ hai.
- 1883 ngày 12-3 Pháp đánh chiếm khu mỏ than Hòn Gai.
- 20-8 Pháp đánh chiếm Thuận An, uy hiếp triều đình Huế.
- ngày 25-8 Triều đình ký Hiệp ước với Pháp tại Huế thừa nhận Bắc kỳ là thuộc địa của Pháp và chấp nhận nền bảo hộ của Pháp ở Trung kỳ.
- 1883 ÷ 1887 Khởi nghĩa chống Pháp của Tạ Hiện ở Bắc Kỳ.
- 1884 ngày 6-6 Triều đình ký hiệp ước với Pháp tại Huế chấp nhận nền bảo hộ của Pháp và sẽ thay mặt nước An Nam trong mọi quan hệ đối ngoại.
- 1885 ngày 5-7 Sự biến kinh thành Huế.
- Tôn Thất Thuyết và Trần Xuân Soạn tấn công Pháp ở đồn Mang Cá.
- ngày 13-7 Vua Hàm Nghi rời kinh thành Huế và hạ Chiếu cần Vương phát động phong trào chống Pháp.
- 1885 ÷ 1898 Phong trào Cần Vương.
- Miền Trung: có các cuộc khởi nghĩa của vua Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng, Mai Xuân Thưởng, Nguyễn Duy Hiệu, Nguyễn Xuân Ôn, Tống Duy Tân, Trần Xuân Soạn, Đinh Công Tráng,...
- Miền Bắc: có các cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thiện Thuật, Tạ Hiện, Ngô Quang Bích, Đốc Ngữ,...
- 1888 Vua Hàm Nghi bị bắt đi lưu đầy.
- 1892 Chiến thắng Yên Lãng (Hòa Bình) của nghĩa quân Đốc Ngữ.
- 1895 Chiến thắng Vụ Quang của nghĩa quân Phan Đình Phùng.
- 1885 ÷ 1913 Khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám.
- 1894 Chiến thắng Hữu Nhuế (tức Hồ Chuối) của nghĩa quân Yên Thế.
- 1887 Pháp thành lập Liên bang Đông Dương và đặt chế độ toàn quyền Đông Dương.
- 1890 Ngày sinh Nguyễn Sinh Cung, tức Nguyễn Tất Thành, về sau là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh.
- 1904 Phan Bội Châu thành lập Duy Tân hội.
- 1904 ÷ 1909 Phong trào Đông Du.
- 1905 Phan Bội Châu sang Nhật hoạt động, thúc đẩy phong trào Đông Du.
- 1907 ÷ 1908 Phong trào Đông Kinh nghĩa thục.
- Từ tháng 3-12 Trường Đông Kinh nghĩa thục của Lương Văn Can mở tại Hà Nội.
- Mở đầu phong trào chống thuế ở Trung kỳ năm 1908, ngày 11-3-1908 (kéo dài tới tháng 8-1908).
- 1908 Vụ Hà thành đầu độc.
- 1909 Bãi công của 200 công nhân viên chức hãng Liên hiệp thương mại Đông Dương (L.U.C.I) ở Hà Nội.
- 1911 Nguyễn Tất Thành ra nước ngoài tìm đường cứu nước.
- 1912 Phan Bội Châu, Cường Để thành lập Việt Nam Quang Phục hội.
- 1914 Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ.
- 1916 phá khám lớn Sài Gòn của Thiên Địa hội.
- Khởi nghĩa của vua Duy Tân, Thái Phiên và Trần Cao Vân ở Nam Trung kỳ.
- 1917 Khởi nghĩa Thái Nguyên của Trịnh Văn Cấn và Lương Ngọc Quyến.
- 1919 Tôn Đức Thắng tham gia cuộc binh biến ở Biển Đen ủng hộ nước Nga Xô Viết.
- Nguyễn Ái Quốc gửi "yêu sách 8 điểm của nhân dân Việt Nam" tới Hội nghị Véc Xây.
- 1920 Nguyễn Ái Quốc tham gia Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp, bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế thứ ba, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.
- 1921 Nguyễn Ái Quốc tham gia sáng lập Hội Liên hiệp Thuộc địa tại Pháp.
- 1922 Báo La paria (Người Cùng Khổ) ra số đầu tiên.
- 1923 Thành lập Tâm Tâm xã tại Quảng Châu (Trung Quốc).
- 1924 Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội 5 Quốc tế Cộng sản.
- Phạm Hồng Thái mưu sát toàn quyền Đông Dương (Méc-lanh) tại Sa Diện (Quảng Châu).
- 1925 Xuất bản tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp của Nguyễn Ái Quốc và thành lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội.
- Báo Thanh Niên ra số đầu tiên.
- Thành lập Hội Phục Việt.
- Bãi công của hơn 1000 công nhân Ba Son (Sài Gòn do Công hội Đỏ lãnh đạo).
- Tòa án thực dân xét xử Phan Bội Châu, (Phong trào đòi ân xá Phan Bội Châu nổ ra).
- 1926 Phan Châu Trinh qua đời.
- 1927 Xuất bản tác phẩm Đường Cách Mệnh của Nguyễn Ái Quốc.
- Thành lập Việt Nam Quốc dân Đảng.
- 1928 Thành lập Tân Việt Cách mạng Đảng, ngày 14-7.
- 1929 Thành lập Chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam, tháng 3.
- Cuộc bãi công của công nhân hãng A-via (Hà Nội) do chi bộ cộng sản lãnh đạo, ngày 18-5.
- Thành lập Tổng Công hội đỏ Bắc kỳ, ngày 28-7.
- 1929 ÷ 1930 Quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
- Thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng tại Bắc kỳ, ngày 17-6.
- Thành lập An Nam Cộng sản Đảng tại Trung kỳ, tháng 11.
- 1930 Thành lập Đông Dương cộng sản Liên đoàn, ngày 1-1.
- Hội nghị hợp nhất các Đảng của người cộng sản Việt Nam, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 3-2.
- Đông Dương cộng sản Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 24-2.
- Khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc dân Đảng do Nguyễn Thái Học lãnh đạo, tháng 2.
- 1930-1931 Cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo, từ 12-9-1930 đến 6-1931.
- Cuộc đấu tranh của nông dân Tiền Hải (Thái Bình), ngày 14-10.
- Thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương, ngày 26-3-1931.
- Phong trào đấu tranh của công nhân xe lửa Đà Nẵng - Nha Trang, tháng 3-1932.
- Hội nghị Ban lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương ở ngoài nước và đại biểu trong nước họp tại Ma Cao (TQ), ngày 14-6-1934.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương tại Ma Cao, ngày 27-3-1935.
- Phong trào Mặt trận Nhân dân Phản đế Đông Dương của Đảng Cộng sản Đông Dương, 1936 ÷ 1939
- Phong trào Đông dương Đại hội, tháng 8-1936.
- Chính quyền Pháp ở Đông Dương hoàn thành xây dựng tuyến đường sắt xuyên Đông Dương, ngày 1-10-1936.
- Toàn vùng mỏ than Hòn Gai bãi công, ngày 23-11-1936.
- Phong trào đấu tranh đòi dân chủ nhân việc "đón Gô-đa", tháng 1-1937.
- Cuộc mít tinh của 25.000 người kỷ niệm Ngày quốc tế Lao động tại Hà Nội, ngày 1-5-1938.
- Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, ngày 1-9-1939.
- Đảng Cộng sản Đông Dương ra thông báo khẩn cấp về tình trạng thời cuộc, ngày 3-10-1939.
- Chiến tranh thế giới thứ hai ảnh hưởng tới Việt Nam năm 1940
- Phát xít Nhật đưa quân vào Đông Dương, ngày 22-9-1940.
- Khởi nghĩa Bắc Sơn, ngày 27-9-1940.
- Khởi nghĩa Nam Kỳ, ngày 23-11-1940.
- Cuộc nổi dậy của binh lính Đông Dương ( ở Nghệ An), ngày 13-11-1941.
- Nguyễn Ái Quốc về nước (tới Cao Bằng) trực tiếp chỉ đạo cách mạng, ngày 8-2-1941.
- Hội nghị BCH trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, ngày 10-5-1941.
- Thành lập Đội Thiếu niên Tiền phong và Nhi đồng Cứu quốc vong, ngày 15-5-1941.
- Thành lập Mặt trận Việt Minh, ngày 19-5-1941.
- Pháp Nhật ký Hiệp ước phòng thủ chung Đông Dương, ngày 29-7-1941.
- Nguyễn Ái Quốc ra chỉ thị mở rộng căn cứ địa Cao Bằng và phong trào Nam tiến, tháng 7-1942.
- Nguyễn Ái Quốc bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam ở Trung Quốc, 1942÷1943.
- Đại hội Việt minh tại Cao Bằng và chỉ thị của Tổng Bộ Việt Minh về vấn đề khởi nghĩa vũ trang và xây dựng chính quyền cách mạng, ngày 15-11-1942.
- Hội nghị Ban thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương và bản đề cương Văn hóa Việt Nam, ngày 25-2-1943.
- Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị về sửa soạn khởi nghĩa, ngày 7-5-1944.
- Thành lập Đảng Dân chủ Việt Nam, ngày 30-6-1944.
- Thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân (Quân đội nhân dân Việt Nam), ngày 22-12-1944.
- * 9-3-1945 : Nhật nổ súng lật đổ Pháp trên toàn Đông Dương. Thời kì Pháp thuộc kết thúc.
Thời kỳ Chiến tranh Đông Dương 1945-1975
Bài chi tiết: Niên biểu lịch sử Việt Nam thời kỳ 1945-1975
- Năm 1945: Nạn đói gây ra cái chết của 2 triệu người (trong dân số 25 triệu).N
- 11-3-1945: Đế quốc Việt Nam ra đời, vua Bảo Đại bổ nhiệm Trần Trọng Kim làm Nội các Tổng trưởng thành lập chính phủ đầu tiên của Việt Nam.
- 19-8-1945: Cách mạng tháng Tám thành công.
- 2-9-1945: Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập tại Hà Nội. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời.
- 23-9-1945: Quân Pháp quay trở lại miền Nam. Ngày Nam Bộ Kháng chiến.
- 6/1/1946 Tổng tuyển cử trong cả nước bầu Quốc hội.
- 6/3/1946 Hiệp định sơ bộ về Việt Nam được kí kết tại Hà Nội.
- 14/9/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh kí với Pháp tạm ước tại Pari.
- 19-12-1946: Hồ Chủ tịch phát động Toàn quốc kháng chiến. Kháng chiến chống Pháp bắt đầu.
- 7/10 -19/12/1947 Chiến dịch Việt Bắc thu – đông 1947
- 8-3-1949: Pháp thành lập chính phủ Quốc gia Việt Nam.
- 16/9 -22/10/1950 Chiến dịch Biên giới thu – đông 1950
- 3/3 -7/5/1954 Chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử 1954
- 8-5-1954: Hiệp định Geneva chia Việt Nam thành 2 khu vực quân sự tại vĩ tuyến 17.
- 10/10/1954 Ta tiếp quản thủ đô Hà Nội.
- 1/1/1955 Toán lính Pháp cuối cùng rút khỏi Cát Bà ( Hải Phòng )
- 26-10-1955: Việt Nam Cộng hòa thành lập. Ngô Đình Diệm làm tổng thống.
- 1959 -1960 Phong trào Đồng Khởi.
- 20-12-1960: Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam được thành lập.
- 1/1961 Trung ương cục miền Nam thành lập.
- 15/2/1961 Các lực lượng vũ trang cách mạng thống nhất thành Quân giải phóng miền Nam Việt Nam.
- 1-11-1963: Đảo chính lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm.
- 2-8 và 4-8-1964: Sự kiện Vịnh Bắc Bộ.
- 5-8-1964: Mỹ thực hiện Chiến dịch Mũi Tên Xuyên, bắt đầu ném bom miền Bắc.
- 8-3-1965: Mỹ bắt đầu đưa quân vào tham chiến tại miền Nam Việt Nam với 3.500 lính thuỷ quân lục chiến, đến tháng 12, tổng số quân Mỹ tại Việt Nam đã lên tới gần 200.000.
- 3-9-1967: Nền Đệ nhị cộng hòa tại Nam Việt Nam. Nguyễn Văn Thiệu nhậm chức Tổng thống.
- 30-1-1968: Cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân mở màn.
- 27-1-1973: Hiệp định Paris được kí kết. Quân đội Mỹ rút hoàn toàn khỏi Việt Nam.
- 17 đến 19-1-1974: Hải chiến Hoàng Sa. Trung Quốc chiếm quần đảo Hoàng Sa.
- 10-3-1975: Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tấn công Buôn Mê Thuột, bắt đầu cuộc Tổng tấn công mùa xuân 1975.
- 30-4-1975: Quân giải phóng tiến vào Sài Gòn. Chiến tranh kết thúc. Việt Nam thống nhất.
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1976 - nay)
Sự kiện | Thời gian |
---|---|
| ngày 2-7-1976 |
| ngày 20-9-1977 |
| 1975 ÷ 1979 |
1979 | |
| 1975 ÷ 1986 |
| 1986 |
| 1988 |
| 1995 |
| 1998 |
| 2007 |
Tham khảo :
No comments:
Post a Comment
Thank for your comments