Một số hình ảnh về Chùa Núi Châu Thới :
Đứng trên cao, giữa thinh không tĩnh mịch thấy lòng bình yên đến lạ...
Cỏ cây chen đá...
Song Long
Tượng Quan Âm Bồ Tát lộ thiên cao 22,5 m, nặng trên 100 tấn, được xem là pho tượng cao nhất của tỉnh Bình Dương
Phật Quan Âm bằng đá
Năm 2003, đại hồng chung bằng đồng được đúc ngay tại chùa với trọng lượng khoảng 5 tấn
Chùa nhìn từ chân núi
Bánh xe pháp luân
Bậc tam cấp lên chùa
Cổng chùa núi Châu Thới
Một phần mái chùa
Tượng Phật A Di Đà
Một số bài viết về Chùa Núi Châu Thới :
Bình Dương: Triển lãm ngọc Xá lợi của Đức Phật và đệ tử
Đây là sự kiện đặc biệt hiếm có và thiêng liêng với các Phật tử Việt Nam
Từ ngày 27- 29/3, tại chùa Châu Thới, xã Bình An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương diễn ra Triển lãm Xá lợi của Đức Phật, chư vị đại đệ tử cùng 500 vị La Hán. Đây là sự kiện đặc biệt hiếm có và thiêng liêng với các Phật tử Việt Nam
Trong 3 ngày triển lãm, các Phật tử được các vị Đại sư đặt xá lợi lên đầu, làm phúc cầu an. Ngoài ra, khách hành hương còn được phục vụ miễn phí nước và cơm chay khi đến với cửa Phật.
Sau khi triển lãm tại chùa núi Châu Thới, các viên ngọc xá lợi được mang đến triển lãm tại nhiều nước trên thế giới và cuối cùng sẽ vĩnh an tại đất Phật Tây Tạng.
Được biết, theo kinh điển nhà Phật: “Xá lợi là pháp bảo thiêng liêng, là niềm tin vô giá. Xá lợi Phật đến đâu là Kim Thân Phật hiện hữu đến đó”./.
Theo : http://vov.vn
--------------------------------------------------------------------------------
Chùa núi Châu Thới
Chùa trên núi Châu Thới.Tên thường gọi: Chùa Châu Thới
Chùa tọa lạc tại xã Bình An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương, trên một ngọn núi cao 85m. ĐT: 0650.751519. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.
Chùa do Thiền sư Khánh Long tạo dựng vào thế kỷ XVII. Sách Sơ thảo Phật giáo Bình Dương (NXB. Mũi Cà Mau, 2000) cho biết chùa có thể được lập vào năm Tân Dậu (1681). Nhà tổ và giảng đường được trùng tu năm 1930, tam quan xây dựng năm 1970, 220 bậc thang lên xuống núi được xây đắp xi măng năm 1971. Ngôi chánh điện được Hòa thượng Viện chủ Thích Huệ Thông và Thượng tọa trụ trì Thích Minh Thiện tổ chức đại trùng tu từ năm 1993 đến năm 1995.
Kiến trúc chùa chính gồm một quần thể bao gồm: ngôi chánh điện, nhà Tổ, điện Thiên Thủ Thiên Nhãn, miếu thờ Linh Sơn Thánh Mẫu, điện thờ Diêu Trì Kim Mẫu và Ngũ Hành Nương Nương (thuộc tín ngưỡng dân gian). Cấu trúc mái trên chánh điện theo kiểu tứ tượng. Chùa sử dụng những mảnh gốm sứ đắp lên các con rồng ở cuối các đầu đao của mái chùa. Trên đỉnh mái, có chín con rồng nhìn ra nhiều hướng. Mặt tiền được đắp gốm sứ tạo các loại hình như tứ linh, thủ quyển, đức Phật đản sanh…
Điện Phật được bài trí tôn nghiêm. Tầng trên thờ tượng Di Dà Tam Tôn: đức Phật A Di Đà, Bồ tát Quan Thế Âm và Bồ tát Đại Thế Chí. Các tầng kế thờ đức Phật Thích Ca (cao 3m), đức Di Lặc, tượng Đản sanh. Các pho tượng trên đều được đúc bằng đồng tại chùa do nhóm thợ Huế thực hiện. Hai bên vách chánh điện thờ bộ tượng Thập Bát La Hán và Thập Điện Minh Vương bằng đất nung.
Năm 1988, chùa đúc một đại hồng chung (đúc tại Huế, theo mẫu đại hồng chung chùa Thiên Mụ).
Năm 1996, chùa xây dựng một bảo tháp 4 tầng, cao 24m: Tầng 1 tôn trí tượng Quan Đế bằng đồng nặng 5 tấn, tầng 2 tôn trí tượng Bồ tát Địa Tạng bằng đồng nặng 3 tấn, tầng 3 tôn trí tượng Bồ tát Quán Thế Âm bằng đồng nặng 1 tấn, đại hồng chung nặng trên 1,5 tấn và tầng 4 tôn thờ Xá Lợi Phật.
Ở Tây lang, chùa tôn trí tượng Quan Âm Thiên thủ Thiên nhãn, đại hồng chung nặng 850kg đúc năm 2003. Đặc biệt ở đây có điện Di Lặc với pho tượng Ngài cao 2,4m, nặng 2,5 tấn, bằng gỗ buôn mu (ở Lào).
Ở Đông lang, chùa tôn trí pho tượng đức Phật Thích Ca nhập niết bàn bằng đá (ở Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng) dài 4,5m, nặng 8 tấn; tượng Trúc Lâm Tam Tổ (Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang) và tượng Ngọc Hoàng (năm 2003).
Chùa còn bảo tồn nhiều pho tượng cổ và tượng quý như bộ tượng Thập bát La Hán, Thập Điện Minh Vương bằng đất nung; tượng Bồ tát Quán Thế Âm bằng gỗ mít và một số tượng Phật, tượng Bà Chúa Xứ bằng đá xanh. Đặc biệt, chùa còn lưu giữ 3 pho tượng Phật bằng đá có niên đại vào khoảng cuối thế kỷ XVIII.
Các đời Hòa thượng trụ trì chùa: Hồng Kiềm – Chơn Quả, đời 40 dòng Lâm Tế Chánh Tông ( ? – 1922), Nhật Tâm – Đồng Minh (1922 – 1936), Nhật Liên – Thiện Hóa (1936 – 1950), Lệ Huệ – Thiện Chí (1950 – 1953), Lệ Thiện (1953 – 1958), Huệ Thông (1958 – 1983). Thượng tọa Thích Minh Thiện trụ trì từ năm 1983 đến nay.
Chùa là một danh lam thắng cảnh của tỉnh Bình Dương. Hằng năm, chùa đón tiếp hàng vạn du khách, Phật tử đến tham quan, chiêm bái.
Chùa đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia năm 1989.
Chùa Việt Nam - Xưa và Nay
Võ văn Tường
Theo : http://www.vncgarden.com
-------------------------------------------------------------------------------------------------------
Tìm về Bình Dương thanh bình
Một ngày giữa tháng bảy, tránh xa mọi bon chen giữa đất sài gòn ồn ào náo nhiệt, nó tìm về miền đất thanh bình – đất Bình Dương. Bình Dương không chỉ nổi tiếng về cây trái Lái Thêu, gốm Minh Long, hay làng tre Phú An, về đây bạn như được hòa mình vào khung cảnh u nhã, thoát phàm, thấy hồn mình lâng lâng, như trút bỏ mọi phiền não của kiếp nhân sinh.
Cách thành phố Hồ Chí Minh 24km, qua cầu Bình Triệu, quẹo phải theo đường Kha Vạn Cân chùa Châu Thới thuộc xã Bình An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương được xếp hạng di tích danh lam thắng cảnh cấp quốc gia ngày 21/04/1989.
Là chùa xưa nhất ở Bình Dương, và là một trong những ngôi chùa được hình thành sớm ở Nam bộ. Cổng chùa bằng đá dưới chân núi có đề tên chùa bằng chữ Hán “Châu Thới sơn tự".
Năm 1971 với sự góp công, góp sức của tăng ni phật tử xây dựng 220 bậc tam cấp bằng xi măng dẫn lên chùa, qua bậc tam cấp là đến cổng tam quan (xây dựng năm 1989) có ba mái cong và bánh xe pháp luân ở giữa đỉnh.
Chùa nằm trên núi Châu Thới cao 82m, nên còn được gọi là chùa núi Châu Thới, xung quanh được bao bọc bởi rừng cây cổ thụ nên rất tĩnh lặng. Cách thành phố Biên Hòa 4km là các thắng cảnh, khu vui chơi nghĩ mát như chùa Tam Bảo, suối Lồ Ồ, núi Bửu Long.
Chùa hiện nay được xây dựng năm 1954. Từ năm 1992 - 1995 ngôi chánh điện được Hòa thượng Viện chủ Thích Huệ Thông và Hòa thượng trụ trì Thích Minh Thiện tổ chức đại trùng tu.
Tham khảo : http://yume.vn/news/du-lich/chia-se/tim-ve-binh-duong-thanh-binh.35A8ABAE.html
-------------------------------------------------------------------------------------------------------
Núi Châu Thới | ||
|
-----------------------------------------------------------------------------------
Chùa Núi Châu Thới - Di tích lịch sử văn hóa, thắng cảnh cấp quốc gia
Chùa Núi Châu Thới là ngôi chùa xưa nhất của Bình Dương, hình thành sớm vào hàng đầu ở Nam bộ (ở nửa sau thế kỷ XVII), có kiến trúc hoành tráng, một trong những ngôi chùa cổ nổi tiếng của đất Gia Định xưa được giữ gìn, tôn tạo và phát triển cho đến ngày nay. Chùa được xây trên ngọn núi Châu Thới cao 82m ở xã Bình An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương nên có tên chùa Núi Châu Thới. Chùa núi này cách thành phố Biên Hòa 4km, Tx.Thủ Dầu Một 20km, Tp.Hồ Chí Minh 24km và đã được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa và thắng cảnh cấp quốc gia theo Quyết định số 451NH-QĐ ngày 21/4/1989.
Cổng chùa bằng đá dưới chân núi có đề tên chùa bằng chữ Hán 'Châu Thới Sơn Tự”, bước lên 220 bậc thềm sẽ đến cổng tam quan có ba mái cong và bánh xe pháp luân nằm ở giữa đỉnh, hai bên cửa có mấy chữ 'Từ bi - Hỷ xã..."', trên biển giữa Giảng Phật đường có ghi thêm dòng chữ 'Tân Dậu niên, chánh ngoặt sơ kiết nhật' (ngày tốt đầu tháng giêng năm Tân Dậu) bên dưới ghi rõ hàng số 1612 (có thể hiểu chùa được xây năm 1612). Nhưng thượng tọa Thích Huệ Thông cho rằng lấy năm Tân Dậu 1681 là năm dựng chùa thì hợp lí hơn, vì năm 1612 là năm Nhâm Tý.
Đến nay, ngôi chùa đã trải qua nhiều lần trùng tu và xây dựng, ngôi chùa hiện nay được xây dựng vào năm 1954, cổng tam quan được xây dựng năm 1970. Ngôi chùa mang nét kiến trúc đặc trưng của phương Đông, nóc có nhiều mái dao trang trí hình rồng phụng, lợp ngói chồng lên nhau, các trụ cột của chùa được làm bằng gỗ thật hoặc xi măng giả gỗ và được trang trí bằng hình rồng hay hoa lá, quả.
Nét nổi bật về trang trí kiến trúc của chùa là dùng nhiều mảnh gốm sứ màu sắc gắn kết đắp thành hình con rồng dài hơn cả mét đặt ở đầu đao của mái chùa và có đến 9 hình rồng như thế hướng về nhiều phía. Ngoài việc có niên đại hình thành khá sớm cách đây trên 300 năm, chùa còn có nhiều giá trị về đặc điểm cấu trúc cũng như về nghệ thuật thao tác tạo hình như đúc, nung, điêu khắc, chạm trổ qua các tranh tượng vật dụng, tự khí bằng đồng, gỗ, đất nung... Chánh điện được thiết kế dành phần trên thờ phật A Di Đà, Quan Âm, Thế Chí, tầng kế thờ Phật Thích Ca, tầng dưới là nơi thở Phật giáng sinh, các điện thờ này đều được trang trí bao lam sơn son thếp vàng với chạm khắc rồng phượng và chim muông hoa lá.
Toàn bộ những tượng đồng được đúc tại chùa, do nhóm thợ chuyên môn của xứ Huế thực hiện. Chùa có 2 bộ tượng cổ là Thập bát La Hán và Thập điện Diêm Vương bằng đất nung, đây là hai bộ tượng khá xưa và độc đáo của chùa còn lưu giữ được cho thấy nghề gốm ở địa phương đã phát triển khá sớm. Chùa cũng còn lưu giữ được ba pho tượng Phật tạc bằng đá khá xưa (có thể vào cuối thế kỷ XVIII) và một tượng Quan Âm bằng gỗ mít được làm bằng cây mít cổ thụ hàng trăm tuổi được trồng trong vườn chùa. Vào năm 1988, chùa đúc một đại hồng chung theo mẫu của chùa Thiên Mụ (Huế) nặng 1,5 tấn cao 2m, đường kính 1,2m, đặt trên chiếc giá chuông bằng gỗ lim đưa từ Hà Nội về và được nghệ nhân Bình Dương chạm trổ các hoa văn trên đó.
Trong các năm 1996-1998 chùa tổ chức đúc thêm bảy tượng Phật bằng đồng và cho xây dựng một bảo tháp gồm nhiều tầng lầu cao 24m, dùng làm nơi để các tượng thở, riêng tầng 4 dành để thờ Xá Lợi Phật. Gần đây vào năm 2002, bên phải ngôi chùa lại có thêm một công trình mới gồm một trệt một lầu và bên trên sân thượng có xây bảo tháp thờ tượng quan Âm bằng đồng cao 3m, nặng 3 tấn.
Ngoài ra, chùa còn có một tượng Quan Âm Bồ Tát lộ thiên cao 22,5m, nặng trên 100 tấn, được xem là pho tượng cao nhất của tỉnh Bình Dương và tượng Quan Thánh Đế có trọng lượng đến sáu tấn. Bên cạnh đó, các nhà khảo cổ học đã tìm được rìu đá, đục đá, nhiều mảnh gốm... có niên đại khoảng 4000 năm. Đến nay chùa chỉ còn giừ được 5 long vị từ thế hệ truyền thừa đời thứ 40 của phái lâm tế dòng Bổn Nguyên như: Hồng Kiềm (đời 40), Nhật Liên (đời 41), Nhật tâm (đời 41), Lệ thiên (đời 42), Lệ Huệ (đời 43). Về số cổ vật có giá trị đã được xếp loại tại chùa Núi Châu Thới hiện nay còn lưu giừ được 55 hiện vật.
Nằm ẩn giữa những tàng cổ thụ xanh mát, quanh núi là những hồ sen, súng và đồng ruộng bao la, lộng gió, dù xây dựng với phương tiện, vật liệu hiện đại, chùa vẫn giữ được kiến trúc cổ kính, hài hòa phù hợp cảnh quang u nhã, thoát phàm. Lên núi Châu Thới tham quan và viếng chùa cổ, du khách sẽ có dịp ngắm toàn cảnh những thành phố quanh vùng như thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Biên Hòa, xa xa là thị xã Thủ Dầu Một cùng dòng sông Đồng Nai uốn quanh. Không khí trên núi mát mẻ, phong cảnh thì rất hữu tình và yên tĩnh.
Thông tin địa danh:Địa chỉ: Xã Bình An, Huyện Dĩ An, Tỉnh Bình Dương
(NTO.vn tổng hợp)
-----------------------------------------------------------------------------------------------------
Chùa núi Châu Thới huyện Dĩ An Bình Dương: Một di tích danh lam - thắng cảnh quốc gia |
* NGUYỄN HIẾU HỌC - MINH CHÂU |
Chùa núi Châu Thới là ngôi chùa xưa nhất của Bình Dương và là một trong những ngôi chùa hình thành sớm vào hàng đầu của Nam bộ (nửa sau thế kỷ XVII).
Chùa được xây trên ngọn núi Châu Thới (cao 82m) ở xã Bình An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương, nên có tên chùa núi Châu Thới. Chùa núi này cách thành phố Biên Hòa 4km, TX.TDM 20km và được xếp hạng là di tích danh lam - thắng cảnh quốc Gia.(1)
Cổng chua bằng đá dưới chân núi có đề tên chùa bằng chữ Hán “Châu Thới Sơn Tự”. Du khách bước lên 220 bậc thềm sẽ đến cửa Tam quan có ba máy cong và bánh xe pháp luân nằm ở giữa đỉnh, hai bên cửa có mấy chữ “Từ bi - Hỉ xả…” .
Giữa giảng Phật đường của chùa có tấm biển đề 4 chữ “Châu Thới Sơn Tự”, trên biển có ghi Thêm dòng chữ “Tân Dậu niên, chánh ngoặt sơ kiếu nhật (Ngày tốt đầu tháng giêng năm Tân Dậu) bên dưới ghi rõ hàng số 1612 (có thể hiểu chùa được xây năm 1612 (?)).
Sách “Sơ thảo Phật giáo Bình Dương” nói về nguồn gốc ngôi chùa này: “Ngôi chùa đầu tiên ở vùng đất Bình Dương ngày nay được xây vào khoảng năm 1612, do thiền sư Khánh Long, trên bước đường vân du hoằng pháp) lên đồi Châu Thới thấy cảnh hữu tình, sư cất một thảo am nhỏ để tu tịnh, thảo am được gọi là chùa Hội Sơn sau đổi tên thành chùa núi Châu Thời” (2). Nhưng sau đó mấy trang, tác giả cuốn Sách tỏ ra hồ nghi và cho rằng năm thành lập chùa 1612 như nói trên là không hợp lý. Trước hết năm 1612 không phải là năm Tân Dậu mà là năm Nhâm Tý, hơn nữa năm 1612 là thời điểm quá sớm so với việc định cư của người Việt tại vùng đất mới này. Rồi tác giả đưa ra nhận định: “Chùa lập vào năm 1681, sau này ngài Thành Nhạc trùng tu và hành đạo nơi đây thì hợp lý hơn”(3).
Theo chúng tôi, ý kiến trên là có cơ sở, vì hầu hết các sách viết về chùa cổ ở Nam bộ đều cho biết những ngôi chùa xưa nhất ở Nam bộ đã được xây dựng vào nửa sau thế kỷ XVll. Chẳng hạn sách “Những ngôi chùa cổ Nam bộ” đã viết: “Ba ngôi chùa cổ là Bửu Long, Long Điền và đại Giác tiêu biểu cho những điểm trụ tích đầu tiên của sơ Tổ Phật giáo Nam bộ (...). Chùa Bửu Long nguyên chỉ là am nhỏ được thành lập nên từ giữa thế kỷ XVII (...). Chùa Long Điền (Tổ đình Sơn môn Nam Việt) lập 1664 (...). Chùa đại Giác được lập vào cuối thế kỷ XVII”(4).Qua các cứ liệu trên, năm Tân Dậu được ghi trên biển chùa núi Châu Thới có lẽ là năm 1861 vì đó là thời điểm hợp lý hơn cả.Nhưng cho dù được thành lập vào năm 1681, chùa núi Châu Thới ở huyện Dĩ An hiện nay vẫn là ngôi chùa xưa nhất Bình Dương và được hình thành sớm vào hàng đầu ở Nam bộ.
Đặc biệt chùa nằm trên đỉnh núi Châu Thới, được xem như là một thắng cảnh hiếm thấy ở giữa một vùng đồng bằng rộng lớn. Núi cao 82m so với mặt bể, chiếm diện tích trên 25 ha lại nằm kế cận các khu dân cư của các tỉnh, thành như Bình Dương, Đồng Nai và TP.HCM. Vị trí danh thắng này rất thuận tiện cho việc tham quan du lịch vì gần các khu vu chơi nghỉ mát khác như chùa Tam Bảo, suối Lồ Ồ, núi Bửu Long (Biên Hòa). Chính vị trí và cảnh quan của núi Châu Thới đã làm tôn thêm vẻ đẹp uy nghi khoáng đãng hiếm thấy của ngôi chùa. Nhiều sách cổ đã từng nhắc đến ngọn núi và ngôi chùa này. Chẳng hạn sách “Gia Định Thành thông chí” đã viết: “Núi Châu Thới (nay là Châu Thới) (...) từng núi cao xanh, cây cối lâu đời rậm tốt, làm tấm bình phong triều về Trấn Thành (…) ở bên núi có hang hố và khe nước, dân núi ở quanh theo, trên có chùa Hội Sơn là chỗ Thiền sư Khánh Long sáng tạo để tu hành, ngó xuống đại giang, du khách leo lên thưởng ngoạn có cảm tưởng tiêu dao
Ra ngoài cửa tục”(5)
Sách “Đại nam nhất thống chí” cũng miêu tả khá rõ núi và chùa Châu Thới gần giống như trên: “Núi Châu Thới tục gọi là núi Châu Thới, ở phía nam huyện Phước Chính 21 dặm, từng núi cao tít làm bình phong cho tỉnh thành (...). Khoảng giữa núi Châu Thới (...) có am Vân Tỉnh là nơi ni cô Lượng tĩnh tu, di chỉ nay vẫn còn (...). Đột khởi một gò cao bằng phẳng rộng rãi, ở bên có hang hố và nước khe chảy quanh, nhà cửa nhân dân ở quanh theo. Trên có chùa Hội Sơn là chỗ Thiền sư khánh Long trác tích tu hành. Năm Bính Thân đạo Hòa Nghĩa là Lý Tài chiếm cứ Châu Thới tức là chỗ này. Năm Tự Đức thứ 3 (1850) đem núi này liệt vào tự điển” (6).
Trong thời Pháp thuộc, nhờ vào địa thế hiểm trở và cảnh u tịch của chốn thiền môn, nhiều người yêu nước thường đến đây ẩn náu, tụ họp để hoạt động chống Pháp. Chẳng hạn vào năm 1916 các hội viên của “Thiên Địa Hội” thuộc vùng Dĩ An - Lái Thiên đã đến chùa Châu Thới tập võ nghệ mưu tính việc chống lại bọn cai trị người Pháp.
Qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và xâm lược Mỹ, chùa núi Châu Thới là nơi có nhiều cán bộ, chiến sĩ ta ẩn náu và hoạt động cách mạng.
Đến nay chùa không còn lưu giữ được đầy đủ long vị và tháp của các vị thiền sư khai sơn mà chỉ thờ các vị tổ bằng tượng gỗ chạm và một số long vị của các hòa thượng đời sau này.
Tương truyền chùa do Thiền sư Khánh Long tạo lập từ đầu thế kỷ XVII (1612) như đã nói ở phần trên, nhưng cũng có sách cho là do Thiền sư thành Nhạc Ẩn Sơn khai sơn và viên tịch ở đây ngày 17-12-1776. Trước đây tại chùa có ngôi bảo tháp của tổ Thành Nhạc nhưng nay không còn(7). Được biết tổ Thành Nhạc có nhiều đệ tử nổi danh như ngài Phật Chiếu Linh Quang, ngài Tổ Kim và Thiện Đức...
Trải qua lịch sử hơn ba trăm năm phải chịu bao hủy hoại tàn phá của thời gian và chiến tranh, chùa núi Châu Thới ngày nay không còn giữ được nhiều dấu tích, kiến trúc nguyên thủy của một chùa được hình thành vào hàng sớm nhất Nam bộ. Hiện chùa gồm một quần thể khá đa dạng được xây dựng vào nhiều thời điểm khác nhau như ngôi chánh điện; điện miếu thờ thiên thủ Thiền nhãn, Linh Sơn thánh mẫu Diêu trì kim mẫu, Ngũ hành nương nương và cả điện thờ Ngọc hoàng Thượng đế. Ở đây còn cho thấy rõ nét sự dung hợp giữa tín ngưỡng Phật giáo và tín ngưỡng dân gian.
Nhà tổ và giảng đường của chùa được trùng tu vào năm 1930. Năm 1971 hoàn tất việc xây 220 bậc thềm (xi măng) dẫn lên chùa và năm 1989 xây thêm cửa Tam quan. Ngôi chánh điện được xây lại khá quy mô bằng bê tông cốt sắt vào năm 1993…Nét nổi bật về trang trí, kiến trúc của chùa là dùng nhiều mảnh gốm sứ màu sắc gắn kết đắp thành hình rồng dài hơn cả métđặtởđầu đao của mái chùa và có đến 9 hình rồng như thế hướng về nhiều phía.
Ngoài việc có niên đại hình thành khá sớm, cách đây trên 300 năm, chùa còn có nhiều giá trị, đặc điểm về cấu trúc cũng như về nghệ thuật tạo tác tạo hình như đúc, nung, điêu khắc chạm trổ qua các tranh tượng vật dụng, tự khí bằng đồng, gỗ, đất nung...Chánh điện được thiết kế: Dành tầng trên thờ Phật A Di Đà, Quan Âm, Thế Chí; tầng kế thờ Phật Thích Ca; tầng dưới là nơi thờ Phật Giáng sinh. Toàn bộ những tượng đồng được đúc tại chùa do nhóm thợ chuyên môn của xứ Huế thực hiện. Chùa còn thờ bộ Thập Bát La Hán và Thập điện Diêm vương bằng đất nung. Đây là hai bộ tượng khá xưa và độc đáo của chùa còn lưu giữ được, cho thấy nghề gốm ở địa phương đã phát triển khá sớm. Chùa cũng còn lưu giữ được ba phượng Phật tạc bằng đá khá xưa (có thể vào cuối thế kỷ XVIII) và một tượng Quan Âm bằng gỗ mít được làm từ cây mít cổ thụ hàng trăm tuổi trồng trong vườn chùa.
Vào năm 1988, chùa đúc một đại hồng chung theo mẫu của chùa thiên Mụ (Huế) nặng 1,5 tấn cao 2m, đường kính 1 ,2m đặt lên chiếc giá chuông bằng gỗ lim đưa từ Hà Nội về và được nghệ nhân Bình Dương chạm trổ các hoa văn trên đó. Trong các năm 1996- 1998 chùa tổ chức đúc thêm bảy tượng Phật bằng đồng và cũng trong năm 1996 chùa cho xây dụng một bảo tháp gồm nhiều tầng cao 24m, dùng làm nơi để các tượng thờ, riêng tầng tưdành để thờ Xá lợi Phật. Gần đây năm 2002, bên phải ngôi chùa lại có thêm một công trình mới gồm một trệt một lầu và bên trên sân thượng có xây bảo tháp thờ tượng Quan Âm bằng đồng cao 3m nặng 3 tấn.
Qua bao thăng trầm biến động, phần lớn các di ảnh, hành trang của hầu hết các vị khai tổ của chùa chỉ còn được lưu truyền qua trí nhớ của các đệ tử. Đến nay chùa chỉ còn giữ được 5 long vị từ thế hệ truyền thừa đời thứ 40 của phái Lâm Tế dòng Bổn Nguyên như Hồng Kiểm (đời 40), Nhật Liên (đời 41),Nhật Tâm (đời 41), Lệ Thiên (đời 42), Lệ Huệ (đời 43). Hiện nay Viện trưởng của chùa là Hòa thượng Thích Huệ Thông (Chứng minh của Hội PGBD) và trụ trì là Thượng tọa thích Minh Thiện (Trưởng ban trị sự phật giáo Bình Dương).
Về số cổ vật có giá trị đã được xếp loại (*) tại chùa núi Châu Thới hiện nay còn lưu giữ được 55 hiện vật (8) đứng nhì trong các ngôi chùa trong tỉnh.
Với giá trị nhiều mặt về lịch sử văn hóa, du lịch... Chùa núi Châu Thới đã được công nhận là di tích lịch sử danh lam - thắng cảnh cấp quốc gia theo Quyết định số 451/VH-QĐ ngày 21-4-1989.
Lâu nay có một vấn đề vẫn luôn khiến cho nhiều người, trong đó không chỉ có tăng ni, phật tử mà cả giới hữu trách về văn hóa, du lịch đều phải quan ngại. Đó là việc bảo toàn nguyên vẹn về cảnh quan cũng như sự an toàn của ngôi chùa núi này. Như đã biết, do nhu cầu về phát triển xây dựng từ nhiều năm nay người ta đã làm biến dạng, thay đổi một phần cảnh quan chung và đã tạo nên mối đe dọa tiềm ẩn san toàn về lâu về dài nền móng mặt bằng của ngôi chùa đã được xếp vào các di tích danh thắng quốc gia này.
Vì thế các biện pháp cụ thể, khả thi của cơ quan quản lý văn hóa du lịch đã đề xuất như tiến hành cắm mốc bảo vệ, phủ xanh phần đất núi đã bị đào xén(9) nhằm bảo vệ cho di tích nổi tiếng này là điều luôn được mọi người mọi giới hết sức quan tâm.
N.H.H
(1) Đây là một trong tám di tích văn hóa và danh thắng cấp quốc gia đa được công nhận tại tỉnh Bình Dương.
(2) Thương tọa Thích Huệ Thông “Sơ thảo Phật giáo Bình Dương”, XB 2000, trang 22.
(3) Theo s.đ.d (G.C 2): Mãi đến năm 1620 Công chúa Ngọc Vạn được Chúa Sãi gả cho vua Chân Lạp và sau sự giao hảo trên, người Việt mới có các cuộc di dân đáng kể vào vùng đất hoang vu ở phía Nam này (trang 24)
(4) Nguyễn Quảng Tuân, Huỳnh Lưu, Trần Hồng Liên “Những ngôi chùa ở Nam bộ” NXB TP.HCM 1994 (các trang 31.36, 40).
(5) S.đ.d (ở ghi chú 2) trang 22, 23.
(6) Bản dịch của Tu Trai Nguyễn Tạo “Đại Nam nhất thống chí” Tập thượng Biên Hòa - Gia Định - Sài Gòn tái bản 1973 (trang 12)
(7) S.đ.d (ở GC 2) trang 26.
(*) Theo định nghĩa của ngành văn hóa - Bảo tàng “Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học.
(8) Theo tài liệu của Sở Văn hóa - Thông tin Bình Dương. Ngành chuyên môn tại địa phương đã tiến hành kiểm kê, lập danh mục các cổ vật tại những di tích trong tỉnh theo Chỉ thị số 05/2002/CT-TTg ngày 18-2-2002 của Thủ tướng Chính phủ.
(9) Theo “Dự án quy hoạch bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá tri di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh tỉnh Bình Dương đến năm 2010...” của Sở VHTT Bình Dương - 2006.
Theo : Sugia.vn
|
No comments:
Post a Comment
Thank for your comments