Showing posts with label Đáy hàng khơi gian khổ. Show all posts
Showing posts with label Đáy hàng khơi gian khổ. Show all posts

Tuesday, March 13, 2012

Đáy hàng khơi gian khổ, nhọc nhằn



Một số hình ảnh : Đáy hàng khơi gian khổ, nhọc nhằn


[slideshow]



Miền Tây chỉ có ở Bạc Liêu, Cà Mau là có nhiều người sinh sống nhờ vào Miệng Đáy Hàng Khơi. Chỉ có những người “trong cuộc” mới hiểu hết cái gian truân, nhọc nhằn, khổ cực của nghề nầy. Nhiều lúc phải dầm mưa dãi nắng, đối mặt với gió bão không ít người đã bỏ mạng theo những Miệng Đáy “thủy thần”. Một cái chòi cheo leo giữa ngàn khơi, có khi là đôi vợ chồng, hoặc là cha con hay anh em sinh sống phần lớn thời gian trên đó. Thức ăn chỉ có ít gạo, mì gói, cá khô và muối hột…

Hàng đáy ở cửa Sông Đốc Cà Mau.Họ ở đó ngày đêm để kiếm sống bằng việc bắt tôm cá. Có mùa nhiều lúc trúng luồng cá thu, được cả chục triệu như chơi. Nhưng chuyện ấy ngày nay càng ít khi tái diễn. Nhiều người còn cho rằng cái nghề làm đáy hàng khơi là một nghề dành cho những kẻ khốn cùng và liều mạng.

Những ngọn sóng lưỡi búa trắng xóa như hàm răng cá mập từng đợt chồm lên, như muốn nuốt chửng căn lều nhỏ như tổ chim sẻ đang run lên trước cơn giận dữ của “Sơn Tinh”. Những căn chòi của người canh đáy hàng khơi, như kiểu nhà cao cẳng, cheo leo trên chiếc cột đáy giữa đại dương bốn bề sóng vỗ. Một vài người đàn ông mình trần da rám nắng đang ngồi nhâm nhi rượu đế với ít khô cá khoai trong lúc ngồi chờ con nước ròng để kéo lưới lên bắt cá. Và thật là nguy hiểm cho những ngư phủ say xỉn khi phải đi trên những sợi dây thừng từ miệng đáy nầy qua miệng đáy nọ, trong lúc sóng to gió lớn, xảy chân rơi xuống miệng đáy xem như nạp mạng cho tử thần.

Ông Tư Tôn, một người gần 80 tuổi bám mình trên những cái “tổ chim” ấy hơn nửa đời người, biết đủ thứ các chiêu thức của nghề làm Đáy Hàng Khơi cho biết: Đã chịu không ít những ngày đối diện với mưa bão ngoài biển khơi, có lần “cái chòi bị gió cuốn phăng đi trên mặt biển nát bét, lúc ấy hai cha con tui kịp chụp được sợi dây neo cố bám và chịu những cú đập như búa bổ của những cuộn sóng dữ, tưởng chừng cha con không còn cơ hội sống sót gặp nhau sau cơn bão dữ ấy”. Từ đó ông bỏ nghề vì già rồi không chịu nổi cái lạnh của gió biển. Cũng từ đó, người con trai út của ông, vốn đã rất thạo nghề, thay ông ra vào để trông nom và cai quản cả 20 miệng đáy đã có từ đời ông nội.

Người mới vào nghề, nhìn thấy hàng cột đáy rung lên trong luồng nước chảy xiết, chắc sẽ rất ngán. Nhưng hàng cột đáy làm bằng cây kè, một loại cây mọc trên núi cao, thịt cứng như đá, búa chém vào còn phải mẻ. Trước khi cắm nọc để hạ đáy, người ta thả một cây gọi là cây “sủi” để lấy dấu, cây nọc kè sẽ nương theo “dấu” đó và nhờ vào sức nặng nó sẽ từ từ lún xuống, cắm sâu vào lớp bùn dưới đáy biển. Giữa hai cây nọc kè, người ta mắc một miệng đáy bằng tấm lưới chắc, đường kính rộng khoảng 25 thước. Miệng đáy hình dạng giống như cái phễu, càng về sau càng nhỏ dần, đến phần đuôi gọi là cái đụt. Tôm, cá theo dòng nước xiết chui vào miệng đáy rồi cuối cùng nằm kẹt trong phần đụt, hết đường thối lui. Đến khi xổ đáy, người ta chỉ việc tháo mối dây cột túm ở phần chót đụt rồi đổ tôm, cá vào trong ghe.

Khác với đáy sông (để bắt tôm, cá trong các sông, rạch), đáy cạn (ở ngoài khơi, cách bờ biển độ 5-7 cây số), đáy hàng khơi nằm ở tận những vùng nước sâu độ 11-12 sải tay và cách đất liền trên dưới 25 cây số. Ngư phủ miệt Cà Mau thường chọn vùng biển nằm giữa Hòn Khoai và Hòn Chuối, phía đông nam vịnh Thái Lan, để hạ đáy, do vậy mà gọi là “đáy hàng khơi”. Tuy nhiên, người nào theo nghề nầy cũng dày dạn kinh nghiệm sống, nhất là những lúc lâm nguy, họ bình tĩnh như không có chuyện gì xảy ra.

Người làm đáy hàng khơi có cái tự tin, kiêu hãnh, dám đem lá gan của mình đọ sức với thiên nhiên đầy hiểm nguy, bất trắc.... Nhưng nếu họ có sự chọn lựa nào khác hơn để mưu sinh trong cuộc sống, nhiều người trong số họ cho biết sẽ không làm nghề này.

VienDongDaily.Com

---------------------------------------------------------

Những người sống treo trên sóng


Đóng đáy hàng khơi là công việc nặng nhọc và đầy hiểm nguy. Ngư dân phải ra khơi cách bờ từ 7 - 10 hải lý, dùng hai cây gỗ chắc đóng sâu vào đáy biển và chăng lưới, chờ con nước.

Những chiếc chòi trông đáy hàng khơi như những tổ chim chung chiêng trên đầu sóng.












Chơi vơi cùng bạn tàu

Ngư dân Cà Mau có hàng ngàn miệng đáy hàng khơi vùng biển. Các cửa biển Cái Đôi Vàm (Phú Tân), Rạch Gốc, xã Tân Ân, Rạch Tàu, xã Đất Mũi (Ngọc Hiển),…hình thành làng đáy hàng khơi góc biển cuối trời Nam.

Ở đó, có những người làm chủ hàng chục, hàng trăm miệng đáy. Ngư phủ làm mướn cho chủ đáy hàng khơi gọi là bạn. Ngư phủ đi theo tàu ra biển đóng đáy gọi là bạn tàu. Ngư phủ làm trên biển gọi là bạn chòi.

Gia đình của bạn đáy hàng khơi quây quần xung quanh chủ đáy hàng khơi thành làng chài ven  biển. Ông Hồng Văn Hoàng (Bảy Hoàng) một chủ đáy hàng khơi tầm cỡ ở Tân Ân (Ngọc Hiển) cho biết: “Không ai dám chắc đáy hàng khơi có tự bao giờ, chỉ biết là ngư dân cứ vươn ra biển đến chừng nào không thể vươn ra được nữa thì đành dừng lại. Khu vực nước biển chảy phía Biển Đông và Biển Tây gần Hòn Khoai có nhiều tôm cá nhất. Ở đây, hàng ngàn miệng đáy hàng khơi cứ giăng giăng kín cả vùng”.

Nhiều chủ đáy hàng khơi không muốn người lạ theo tàu ra vùng đáy, tuyệt đối là không cho đàn bà con gái xuống tàu. Anh Ba Kỉnh, Chủ tịch UBND thị trấn Cái Đôi Vàn (Phú Tân, Cà Mau) dặn tôi như vậy khi làm mai mối với ông chủ đáy ra khơi ở cửa biển Cái Đôi Vàm.

Ông Sáu Quảng - chủ đáy hàng khơi có máu mặt ở Cái Đôi Vàm khuyên tôi đừng theo tàu đi đóng đáy, sợ say sóng. Tôi năn nỉ chỉ cần ra hàng đáy chụp hình, hỏi thăm anh em bạn chòi ngoài hàng đáy.

Ông Sáu Quảng dặn lại: “Chú muốn thì cứ đi, sợ mệt chứ không chết chóc gì đâu. Nhưng chuyện chụp hình thì tôi chẳng biết, sóng gió dữ lắm, gió tốc mái chòi, sóng cuốn trôi lưới là chuyện thường ngày của dân vùng đáy”.

Thấy tôi cứ lì lợm năn nỉ muốn tận mắt nhìn thấy ngư dân làm nghề đáy hàng khơi, ông Sáu Quảng cho tháp tùng với tàu ra đổ đục đáy hàng khơi. Anh em ngư phủ (bạn tàu) tiếp dầu, thức ăn, nước uống, kiểm tra máy móc xong.

Tôi đu cột nhà sàn để xuống tàu, ông Sáu Quảng lắc đầu: “Ra biển, chú đeo giầy làm gì, lỡ rớt xuống biển không tháo kịp, uống nước mặn bể bụng đó nghen!”. Tôi nghe lời ông Sáu Quảng bỏ giầy, túi xách, vỏ máy vô ca - bin tàu, chỉ để chiếc máy ảnh đeo vào cổ.

Chiếc ghe nhỏ, chừng 30 tấn hướng ra cửa biển Cái Đôi Vàm. Trong tiếng máy chát chúa, mấy anh em ngư phủ nói chuyện như quát vào mặt nhau. Tàu chúng tôi vừa ra khỏi cửa biển Cái Đôi Vàm, biển bắt đầu nổi sóng, con tàu trở nên bé nhỏ, lao xuống, nổi lên.

Gần 2 tiếng đồng hồ, tàu của chúng tôi mới đến được giàn đáy hàng khơi cách bờ từ 12 đến 20 hải lý, ở giáp ranh vùng nước đục và trong. Tùy vào dòng nước chảy, mỗi giàn đáy hàng khơi thường giăng liền kề vài chục miệng đáy, miệng đáy rộng chừng 50 m.

Đáy hàng khơi có thể khai thác quanh năm, nhưng mỗi năm có hai vụ chính. Mùa nam từ tháng 3 đến tháng 6, mùa chướng từ tháng 9 đến tháng 12 âm lịch. Thường, tàu từ đất liền ra giàn đáy hàng khơi kéo lưới bắt tôm cá từ chạng vạng tối hôm trước đến hừng đông lại quay về bến.












Đời bạn chòi

Vào chính vụ, bạn chòi phải túc trực trên giàn đáy mỗi con nước từ một tuần đến mười ngày. Thời điểm thả lưới bắt tôm cá thay đổi theo vòng xoay của nước biển, khi là nửa đêm, khi giữa trưa nắng. Bạn chòi, bạn tàu hợp đồng chặt chẽ để đưa tàu ra đáy đúng vào lúc kéo lưới (gọi là đổ đục) để bắt tôm cá chở vào bờ, đồng thời tiếp tế những vật dụng thiết yếu cho bạn chòi sống được qua con nước.

Ở vùng biển Cà Mau có hàng ngàn miệng đáy nên có rất nhiều bạn chòi trông coi đáy hàng khơi. Mùa chướng, họ vật lộn với sóng biển canh từng miệng đáy. Mùa gió Tây Nam, họ chống chọi với mùa mưa bão rình rập với vùng biển Cà Mau. Nghề khai thác biển là nghề hạ bạc thì bạn chòi phải đánh đổi sinh mạng mình cho cuộc mưu sinh...

Tàu của chúng tôi vừa cặp cột đáy đầu tiên. Anh em bạn tàu buộc dây vào cột đáy, thả neo xong, bắt đầu kéo lưới đáy. Tôi ngước nhìn lên cao, chừng 10 m, một chòi lá nho nhỏ như một tổ chim ôm lấy cây cột đáy cao, gió xô lắc lư, đu đưa theo gió, vách lá te tua... Từ chòi ló ra hai khuôn mặt đen cháy, tóc tai bù xù, quăng hai sợi dây to cỡ ngón chân cái xuống.

Tôi được anh em giúp đỡ lên chòi đáy hàng khơi bằng cách ngồi vô chiếc cần xé, cầm hai cọng dây nương theo để anh em kéo lên. Hai anh bạn chòi nắm tay tôi, kéo lên chòi. Dây xiết vào tay đau điếng. Thảo nào, bàn tay anh em đều chai cứng, sần vuông như sừng vì suốt ngày đêm kéo lưới.

Căn chòi nhỏ hẹp chỉ đủ 2 bạn chòi ngồi. Tôi ngoái nhìn xuống mặt biển xanh ngắt, choáng váng mặt mày. Hú hồn hú vía, nếu lỡ thủng chiếc cần xé hoặc đứt dây chắc trôi theo nước biển!

Vào con nước, ngư phủ làm việc trên chòi phải ở ròng rã ngoài khơi cả tuần đến 10 ngày mới được vô bờ thăm vợ con. Sum họp gia đình vài ngày giữa hai con nước, rồi lại quay ra chòi để làm bạn với biển khơi.

Anh Thạch Sơl và Trần Văn Mẫn sống trong căn chòi gồm một bếp lò nấu củi, hai can nước ngọt, bao gạo, thùng mì, chén bát đựng trong rổ nhựa, hai cái võng mắc cặp vách. Quần áo thì mỗi người một bộ để mặc khi vào bờ, còn thì họ chỉ mặc độc chiếc quần đùi.

Lạ mắt là tất cả mọi vật dụng đều có một sợi dây cột vào đâu đó, gió lắc lư có rơi cũng còn dính lại. Bật lửa được giữ kỹ nhất, gắn vào khối ximăng, có cái khoen để cột dây. Vật bắt buộc bất ly thân là chiếc áo phao thì chẳng thấy anh nào mặc, kể cả khi di chuyển chơi vơi trên đòn gượng nối hai trụ đáy.

Anh Trần Văn Mẫn có thâm niên  11 năm làm nghề bạn chòi nói: “Áo phao vướng víu, khó khăn đi lại. Nếu lỡ rơi xuống biển thì người ở trên thảy phao, quăng dây. Nếu không thì anh em tụi tui dư sức bơi vô giàn đáy gần đây!”.

Bạn chòi sử dụng chung mọi thứ nhưng chỉ có một vật dụng mà ai cũng giữ riêng đó là con dao nhỏ, lưỡi xếp, sắc bén vắt lưng quần. Tôi hỏi anh Thạch Sơl giữ khư khư con dao bên người để làm gì? Anh cười rất tươi, hàm răng nhuốm màu khói thuốc: “Anh em ở trên chòi, không may rơi xuống biển, nước đạp trôi vào đục đáy (lưới đáy) rạch rách lưới để thoát thân!”.

Lòng bàn chân của hai anh bạn chòi chai cứng vì đi suốt trên dây đáy giăng ngang giữa 2 cây cột đáy. Nhìn thấy anh em đi lại trên giàn đáy hàng khơi, tự cân bằng, không cần bất cứ thứ gì như nghệ sĩ làm xiếc trên dây.

Anh Thạch Sơl cho biết: “Mùa gió chướng là mùa thu nhập chính của bạn chòi chúng tôi. Con nước nào trúng thì được 1 - 2 triệu đồng, ít thì trên dưới 500.000 đồng. Nhưng cũng lắm khi kéo đáy lên chẳng có gì trong đáy, buồn chết được. Có những lúc vợ đau con ốm, không được vào bờ tôi phải liên hệ với chủ hàng đáy qua máy bộ đàm, vay tiền thuốc thang chờ khi mùa chướng về làm trừ nợ ”.

So với những người làm công đáy hàng khơi thì bạn chòi được trả công theo sản phẩm có cả sự ưu ái đặc biệt. Người bạn chòi có quyền chọn và hưởng toàn bộ sản phẩm thu được một trong năm miệng đáy mà người chủ của họ đã đầu tư.

Bạn chòi là những trai tráng tứ xứ “trôi dạt” về đây sớm dấn thân  với nghề biển. Bạn chòi phải chút máu gan dạ, chịu đựng cực khổ, cần cù, chịu khó và chút mạo hiểm.

Anh Nguyễn Văn Lùn, 31 tuổi, làm bạn chòi từ thuở lên 15 kể lại: “Ở chòi tưởng rảnh chớ làm suốt ngày đêm. Sáng sớm lo nấu bữa cơm trần ai vì gió tắt bếp. Ngả lưng chút xíu lại chuẩn bị đóng đáy. Suốt đêm gần như thức trắng để “phạch dạo” cho tàu đến đổ đục. Tàu quay về đất liền mình phải giặt đáy, phơi khô. Hết miệng đáy này sang miệng đáy khác”.

Đành rằng ở mỗi cuộc đời ai cũng tìm một việc để sống. Nhưng người bạn chòi đáy hàng khơi cơ cực, hiểm nguy. Những đêm dài ngày rộng liệu biển có hiền hòa hay giận hờn. Giữa biển cả bao la người bạn chòi trở nên nhỏ nhoi, đơn lẻ. Người bạn chòi được trang bị phao cứu sinh, radio để phòng lúc bất trắc khi biển động mà tàu trong đất liền ra chưa kịp.

Làng chài chờ chồng

Anh Ba Kỉnh, Chủ tịch UBND thị trấn Cái Đôi Vàm (Phú Tân) cho biết: “Thị trấn Cái Đôi Vàm có tới 60 hộ làm nghề đáy hàng khơi, mỗi hộ thuê 10 - 30 bạn. Chỉ những chủ hàng đáy là có thu nhập ổn định, nhiều ông chủ giàu sụ nhờ nghề này. Đại đa số những người làm thuê đều có cuộc sống kham khổ. Đã vậy, nhiều người phải bỏ mạng oan uổng ngoài biển vì nghề này. Sau cơn bão Linda 1997, bạn chòi chết nhiều, bạn chòi giỏi còn rất ít.

Sau một ngày vật lộn với sóng biển kéo đáy, chiếc ghe chở tôi cùng gần 20 bạn chòi trở về, cập bến. Ở bến đã có hàng chục phụ nữ cùng mấy đứa nhỏ tay thúng, tay rổ đứng chờ sẵn từ lúc nào. Hỏi ra mới biết họ là vợ con của những bạn chòi đến nhận phần chia của chồng mình.

Chị Diệp - vợ anh Thạch Văn Thống, vừa thấy chồng bước xuống đã cùng con vui mừng vây lấy mà không màng tới phần cá tôm được chia. Vợ anh Hai Chiểu nói: “Ngày nào chị em tụi tui cũng ngóng ra biển. Ngày qua ngày cứ khắc khoải chờ như thế. Các ổng về mừng đó, các ổng đi lại phấp phỏng lo”.

Lẫn trong số những phụ nữ ấy, có nhiều người không phải đến chia phần mà đến để nhặt cá thuê hay mua lại ra chợ bán kiếm tiền. Nhìn mặt họ phảng phất nét buồn tủi, nhiều người quay mặt giấu những giọt nước mắt lặng lẽ khi chứng kiến cảnh vợ con người khác vui mừng đón chồng.

Nghề đáy hàng khơi là vậy, lắm lúc biển bao dung mang lại cơm no áo ấm cho họ, nhưng đôi khi biển cũng nhẫn tâm cướp đi của lương dân tất cả.

Nguyễn Tiến Hưng- TienPhong

---------------------------------------------------------------

Đặt cược trên ngọn sóng biển Tây


Trải dài từ vùng biển Cần Giờ đến chót mũi Cà Mau, nghề đóng đáy hàng khơi (phương pháp đánh bắt hải sản bằng cách đặt những tấm lưới hình ống theo những dòng chảy mạnh ngoài khơi) suốt hàng trăm năm qua đã là kế mưu sinh của nhiều thế hệ cư dân ven biển miền Tây Nam Bộ.




Tìm hiểu về nghề đáy hàng khơi, chúng tôi được gia đình chị Nguyễn Thị Quýt và anh Huỳnh Văn Sộ, người gốc Trà Vinh cho biết, đáy là tên gọi của một loại ngư cụ được dệt thành những tấm lưới hình ống để đánh bắt thủy hải sản theo dòng nước.


Khi được đưa ra biển, những tấm đáy có chu vị rộng hàng mét buộc chặt vào hệ thống hàng chục cột đáy được chôn sâu dưới biển, mỗi cột cách nhau khoảng mười mét nằm chắn ngang dòng nước cùng với nhiều ngư cụ phụ trợ khác như đõi đáy, nèo đáy, rượng đáy... Cứ khoảng năm cột đáy thì sẽ có một chòi dành cho người canh đáy ăn ngủ trong suốt mùa đáy. Toàn bộ hệ thống kể trên được gọi bằng một cái tên chung là “hàng đáy”. Và cách gọi những ngư dân mưu sinh bằng nghề này cũng theo thế mà qui ước, nếu là người bỏ tiền của để đầu tư ghe thuyền, hàng đáy được gọi là “chủ đáy”, còn là dân nghèo đi đóng đáy thuê thì gọi là “bạn đáy”. “Bạn đáy” cũng chia thành hai loại: dân “bạn ghe” - cách gọi những ngư dân làm thuê có nhiệm vụ chạy ghe ra ngoài đáy vào lúc “đổ đục” (lúc lên lưới), đưa tôm cá vào bờ và dân “bạn chòi” là những ngư dân khai thác, có nhiệm vụ túc trực trong các chòi đáy ngoài khơi từ một tuần đến mười ngày theo con nước để thu gom cá.


Theo lời kể của dân “hàng đáy”, nơi xuất tích của nghề đóng đáy là ngôi làng cổ Long Hậu (nay thuộc xã Mỹ Long Bắc, Mỹ Long Nam và thị trấn Mỹ Long, tỉnh Trà Vinh). Bắt đầu từ thập niên 70 thế kỷ 19, khi kỹ thuật đi buồm dần thay thế cho phương pháp sử dụng ghe chèo, dân hàng đáy Mỹ Long từ chỗ chỉ luẩn quẩn đánh bắt nơi cửa sông biển đã rùng rùng chuyển động, tạo nên một làn sóng lớn mạnh trong việc đưa “hàng đáy” ra xa hơn nữa để đánh bắt được nhiều loại hải sản có giá trị hơn. Cư dân ở các làng biển lân cận cũng theo đó mà rầm rộ phát triển, hàng trăm “hàng đáy” giăng mắc trập trùng ngày một ăn sâu ra biển và cứ thế tiến dần xuống phía Nam.


Không chỉ dừng lại ở đó, ngay từ đầu những năm 60 thế kỷ trước, những cư dân biển quen dọc ngang bờ bãi này đã nhanh chóng tiếp cận được kỹ thuật đóng ghe thuyền đi biển từ các nước trong khu vực, dần thay thế sức gió, sức chèo bằng các loại máy tàu tạo sức đẩy tốt hơn. Trai biển Mỹ Long cùng với sự vươn khơi của nghề đáy biển đã tạo lập thêm nhiều xóm đáy ven biển trù phú còn tồn tại cho đến tận ngày nay như Định An, Gành Hào (Bạc Liêu), Đá Bạc, Rạch Sỏi (Cà Mau)... Về sau, khi nghề đáy hàng khơi được chính quyền hợp tác hóa thì nghề này đã được truyền dạy cho ngư dân nhiều tỉnh như Cà Mau, Kiên Giang, Tiền Giang, Bạc Liêu và trở nên phổ biển khắp duyên hải miền Tây Nam Bộ. Hiện nay, suốt dọc theo vùng biển từ Cần Giờ đến mũi Cà Mau, ước tính phải có đến cả nghìn hộ làm nghề đóng đáy và có hàng chục nghìn nhân công làm thuê.


Không cần phải tô vẽ gì thêm thì hẳn ai ai cũng hiểu rằng, nghề đi biển vốn là một trong những nghề có nhiều bất trắc nhất. Tính mạng và tài sản của con người gần như phụ thuộc hoàn toàn vào sự rủi may và những bất trắc tiềm ẩn của giông gió, sóng lừng chỉ chực chờ một cơn áp thấp nào đó để bất thần “hội quân” lại thành những cơn bão biển, quăng xé và nhấn chìm bất cứ thứ gì trên đường đi của nó. Những năm đầu của thế kỷ 21, hình thức lao động và sự mạo hiểm của nghề đáy hàng khơi cũng vẫn không khác xưa là mấy. Dẫu là những tay “cự phú” miền Tây giàu bạc tỷ hay dân bạn chòi lang bạt kỳ hồ thì khi cây cột đáy được cắm vào lòng biển, cũng có nghĩa là họ đã bắt đầu cuộc chơi được - mất với thiên nhiên. Nhiều năm trở lại đây, khi nguồn lợi thủy sản ven bờ dần cạn kiệt, dòng chảy của chín nhánh Cửu Long cũng dần suy yếu và lượng cá tôm không còn phong phú do các quốc gia đầu nguồn Mê-kông đắp đập ngăn dòng thì những giàn đáy hàng khơi lại càng bị đẩy ra xa hơn nữa mới mong trúng cá. Nhưng xa nhất thì cũng chỉ có thể nằm cách bờ chừng mười lăm đến hai mươi hải lý, thuộc vùng nước giáp ranh mà dân địa phương gọi là vùng giáp ngời.


Để có tiền đầu tư vào “hàng đáy” là một bài toán không đơn giản. Ông Nguyễn Văn Lẹ, một chủ đáy ở ấp Kinh Đào, Đất Mũi, Ngọc Hiển, Cà Mau cho biết hiện gia đình có khoảng gần chục “hàng đáy” và thuê hơn 30 bạn đáy do con trai ông trực tiếp quản lý. Trước đây, cột đáy thường là thân cây dừa hoặc cây sao, thì ngày nay, để cột đáy có thể đứng vững ở vùng nước sâu đến vậy, gia đình ông Lẹ phải đặt mua một loại cây cao trên hai mươi mét được gọi là cây kè, thuộc họ cọ dừa từ Tây Nguyên. Mỗi cây có giá một cây vàng, tương đương với khoảng hai tám, hai chín triệu đồng. Tính sơ sơ thì mỗi một “hàng đáy” phải cần tới trên ba trăm triệu. Vậy mà nếu không may gặp phải bão lớn thì cả giàn đáy trên ba tỷ đồng của gia đình ông có thể trong phút chốc tan biến cùng bọt biển và hàng chục bạn đáy sẽ lao đao người còn kẻ mất. Cơn cuồng nộ của biển không nương tay với những cây cột được tính bằng vàng hay tính mạng những “bạn chòi” lẻ loi đơn chiếc trên những chiếc chòi đáy mỏng manh giữa biển Tây. Đã có hàng trăm “chủ đáy” phút chốc tiêu tan sự nghiệp và hàng trăm “bạn chòi” nằm lại dưới đáy biển Tây. Và sau mỗi cơn cuồng nộ ấy, những làng biển trải dọc từ Cần Giờ đến chót cùng Cà Mau sẽ lại có thêm những “xóm không chồng”.


Ở xóm đáy Rạch Tàu còn có một “đại gia” được nhiều người biết tiếng là ông Ba Sỹ, người sở hữu một trăm sáu mươi miệng đáy. Mấy trăm hộ trong xóm hầu hết đều là người làm công cho gia đình ông. Tiền trả công cho người làm thuê được tính bằng chính số hải sản mà họ thu được. Mỗi bạn chòi được phân công trông giữ năm miệng đáy và được hưởng lợi hoàn toàn từ một trong số năm miệng đáy mà mình phụ trách. Mỗi chòi đáy dựng giữa biển vừa là nơi làm việc lẫn nơi sinh hoạt của hai bạn chòi trong suốt thời gian từ một tuần đến mười ngày tùy theo tình hình con nước.


Với nghề đáy hàng khơi, người ta có thể đánh bắt thủy hải sản quanh năm, nhưng đặc biệt “trúng” đậm vào mùa gió Nam (từ tháng 3 đến tháng 6) và mùa gió chướng (từ tháng 9 đến tháng 12 âm lịch). Các chủ đáy và dân bạn chòi sẽ tùy vào tình hình con nước để cân nhắc thời điểm đặt lưới khai thác. Anh Mai Kxieng - một “bạn chòi” người dân tộc Khơme đến từ huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau làm thuê cho gia đình ông Hai Sộ cho biết, thu nhập trung bình của mỗi “bạn chòi” như anh tùy thuộc vào tình hình con nước. Ngày thì bám biển, nương theo con nước chảy để đóng đáy, đêm xuống thì phải thay nhau thức canh chừng. Khi đáy đã “khẳm” thì liên lạc với “bạn ghe” đưa tàu ra “đổ đục” và chuyển tôm cá vào bờ. Mỗi con nước như vậy, nếu trúng cũng được chia phần từ hai đến ba triệu đồng, còn nếu không thì coi như công toi, may ra vớt vát được vài trăm cho vợ đổi gạo.


Đêm thượng tuần tháng chín, chúng tôi có dịp ngồi nhậu chung với gần chục thanh niên Đất Mũi làm dân bạn chài vừa theo ghe về nghỉ. Mùi biển vùng “chót mũi” Tổ quốc còn nồng nã khiến cuộc nhậu vừa gần gũi, vừa phóng khoáng kiểu “tứ hải giai huynh đệ”. Nhậu sương sương, người cười, kẻ khóc, có người hứng chí ca dăm câu vọng cổ nghe mùi đời lạ. Giữa mênh mông biển này, trời này, chúng tôi cảm nhận từ họ nỗi cô đơn, sự bất cần, thách thức với thiên nhiên.


Sớm ngày mai, ghe đáy của gia đình ông Tư Hiệp ở xã Đất Mũi sẽ trục neo đưa năm cây kè mới ra biển để dựng thêm một giàn đáy mới. Lại thêm một cuộc đặt cược trước biển. Nhưng vượt lên trên mọi sự thua thiệt, sự khó khổ và nguy hiểm, họ đã học được cách thương nhau để khỏi cô độc trước trùng dương.


(Theo Baobienphong)




----------------------------------------------------------------

Nghề trông đáy giữa biển khơi














Phải sống trong căn chòi chơ vơ giữa biển, mỗi tháng chỉ vào bờ được vài ngày, những người làm nghề này phải vật lộn với sóng biển canh chừng từng miệng đáy (tấm lưới ngăn dòng để bắt cá). Vất vả, cực nhọc và đôi khi phải đánh đổi cả mạng sống của mình, nhưng cuộc sống của họ vẫn rất nghèo.

Cách bến Rạch Gốc (xã Tân Ân, huyện Ngọc Hiển, Cà Mau) chừng 10 hải lý về phía biển tây có nhiều dãy cọc san sát nhau giống như những hàng cột điện giữa biển khơi, đó là cột kè đáy. Bên trên dãy cọc, cách nhau khoảng 50 m là một cái chòi nhìn từ xa chẳng khác nào... tổ chim. Chòi cao hơn mặt nước gần 10 m, để lên tới đó, người ta phải nắm lấy hai sợi dây nylon lớn bằng ngón chân cái. Chòi rộng chừng 1 m2 dành cho hai người ở với lủng củng những xoong, nồi, chén bát, củi, gạo...

Ở giữa chòi có một cái lò nấu ăn bằng củi. Hai bên có hai chiếc võng của anh Thái Văn Thanh (thường gọi là Hai Chiểu) và anh Võ Văn Hải. Đó là hai người bạn cùng quê Trà Vinh. Trước cả hai cùng theo nghề đáy gần bờ ở quê nhà, mùa màng thất bát, họ phải dắt díu gia đình trôi dạt về tận cửa Rạch Gốc để làm thuê cho ông Bảy Hoàng. Anh Hải kể, cứ phải ngày đêm bám biển, canh con nước chảy mà đóng đáy. Đêm nào giấc ngủ cũng chập chờn vì phải canh chừng tàu buôn. Nếu họ chạy đúng vào hướng dàn đáy thì báo hiệu bằng đèn cho họ đổi hướng, nếu không cả dàn đáy sẽ tiêu tan. Những ngày gió chướng thổi mạnh, sóng biển chồm từng cơn cao như nóc nhà, ngồi trong chòi mà ướt như chuột lột.












Hiện nay các miệng đáy đều nằm cách bờ chừng hơn 10 hải lý. Để có được những miệng đáy xa khơi như vậy, chủ hàng phải lên vùng cao nguyên mua các cây kè cao 20-25 m. Sau đó mua lưới chờ tới con nước đi đóng đáy. Mỗi chủ hàng thường có 20 miệng đáy trở lên. Mỗi bạn chòi giữ năm miệng đáy thì được hưởng trọn một. Đa số họ là người Trà Vinh, nơi từng làm qua nghề hàng đáy gần bờ nên khi đến Rạch Gốc cũng chỉ biết theo nghề này.

Anh Thạch Văn Thống, theo nghề chòi đáy hàng khơi gần 10 năm, cho biết: “Mùa gió chướng là mùa thu nhập chính. Con nước nào trúng thì được 1-2 triệu đồng, ít thì trên dưới 500.000 đồng. Nhưng cũng lắm khi kéo đáy lên chẳng có gì, buồn héo cả ruột”. Bởi hai mùa no đói nên hầu hết cuộc sống gia đình bạn chòi đều nghèo khó. “Có những lúc vợ đau con ốm, không được vào bờ tôi phải liên hệ với chủ hàng đáy qua máy bộ đàm, vay tiền thuốc thang chờ khi mùa chướng về làm trừ nợ” - anh Thống tâm sự. Gia cảnh của anh Thống cũng giống như hầu hết bạn chòi.

Anh Lưu Văn Thọ, Chủ tịch xã Tân Ân, cho biết: “Hiện trong xã có tới 60 hộ làm nghề đáy hàng khơi, trong đó mỗi hộ thuê 10-30 nhân công. Chỉ những chủ hàng đáy là có thu nhập ổn định, nhiều ông giàu sụ nhờ nghề này. Đại đa số những người làm thuê đều có cuộc sống kham khổ, đã vậy nhiều người phải bỏ mạng oan uổng ngoài biển”.

Xã Tân Ân có những người đàn ông phải sống chơi vơi giữa biển khơi thì cũng có những phụ nữ phải ngày đêm ngóng chờ chồng. Mỗi khi có chiếc ghe từ ngoài biển cập bến, có hàng chục phụ nữ cùng mấy đứa nhỏ tay thúng, tay rổ đứng chờ sẵn xúm quanh. Họ là vợ con của những bạn chòi đến nhận phần cá tôm của chồng mình. Chị Diệp - vợ anh Thạch Văn Thống - vừa thấy chồng bước xuống đã cùng con vui mừng vây lấy mà không màng tới phần được chia. Vợ anh Hai Chiểu nói: “Ngày nào chị em tụi tôi cũng ngóng ra biển chờ mấy ông”.

Lẫn trong số phụ nữ ấy, có nhiều người không phải đến chia phần mà đến nhặt cá thuê hay mua lại ra chợ bán kiếm tiền. Nhìn mặt họ phảng phất nét buồn tủi, nhiều người quay mặt giấu những giọt nước mắt lặng lẽ khi chứng kiến cảnh vợ con người khác vui mừng đoàn tụ. Anh Như, cán bộ xã, giải thích: “Đó là những phụ nữ có chồng mất ngoài đáy hàng khơi! Họ ở chung một xóm tại bến Rạch Gốc. Ngày nào họ cũng ngóng ra biển khơi ngậm ngùi...”. Bến Rạch Gốc vẫn không quên cơn bão số 5 năm nào đã cướp đi sinh mạng hàng chục bạn chòi ở cửa Rạch Gốc, Rạch Tàu và các vùng ven biển mũi Cà Mau. Cũng từ đó dọc theo các bờ biển mũi Cà Mau đã hình thành nhiều “xóm không chồng”.

Nhiều người đã phải đoạn tuyệt với nghề đáy, bỏ lên rừng kiếm sống. “Nghề đáy hàng khơi lắm lúc biển bao dung mang lại cơm no áo ấm cho họ, nhưng đôi khi biển cũng giận dữ lấy lại những gì đã ban phát và lấy luôn cả mạng người” - Chủ tịch xã Lưu Văn Thọ, nói.
(Theo Tuổi Trẻ)

-----------------------------------------------------



Chông chênh đời bạn chòi




Ngày đêm phải đối mặt với hiểm nguy trên biển cả bao la, cuộc sống gia đình phụ thuộc hoàn toàn vào sự ưu đãi của biển. Đó là con đường mưu sinh của những người giữ đáy hàng khơi trên vùng biển Cà Mau. Người ta thường gọi họ là những bạn chòi.

Ông Trần Minh Hoàng, Phó Phòng Nông nghiệp - Thủy sản và Phát triển nông thôn huyện Ngọc Hiển, cho biết: “Toàn huyện hiện có khoảng 102 lô đáy hàng khơi. Các chủ đáy là người dân sống chủ yếu ở Rạch Gốc, xã Tân Ân; Rạch Tàu, xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển.

Một lô có từ 60-70 miệng đáy và được đóng cách đất liền trên 18 km, gần Hòn Khoai”. Được biết, một bạn chòi có nhiệm vụ giữ 12 miệng đáy. Như vậy, hiện tại có trên 600 bạn chòi đang ngày đêm phải đối mặt với biển cả mênh mông.

Mưu sinh giữa biển













Cuộc sống của các bạn chòi chỉ quây quần trong những căn nhà chưa đầy 2 m2 giữa biển khơi, cách mực nước khoảng 10 m. Các bạn chòi đáy hàng khơi phải đối đầu với sự khắc nghiệt của biển để mưu sinh lo cho cuộc sống hằng ngày của gia đình.

Tôi tìm đến huyện Ngọc Hiển trong lúc các bạn chòi vào đất liền để tránh cơn bão số 6 (bão Megi). Chỉ cần nhìn nước da đen sẫm của các anh là đủ biết sự khắc nghiệt của thời tiết.

Anh Thái Văn Thanh cho biết: “Nếu không quen chỉ cần nắng và gió biển thôi là cũng không chịu nổi rồi, đừng nói đến những cơn sóng lúc biển động”.

Còn nhớ vào tháng 4 vừa qua, một cơn bão đã cuốn đi một lô đáy hàng khơi trị giá cả tỷ đồng của chú Năm Chầu ở thị trấn Rạch Gốc, huyện Ngọc Hiển. Cùng với lô đáy đó là câu chuyện đau lòng về một người bạn chòi bị mất tích. Đó là một minh chứng xác thực cho những hiểm nguy mà các bạn chòi đáy hàng khơi phải đối mặt.

Anh Thanh bộc bạch: “Nếu bão được dự báo trước thì các chủ đáy sẽ cho người ra rước chúng tôi vào đất liền. Chỉ sợ là những cơn bão đến bất ngờ không kịp trở tay”.

Sự sống của các bạn chòi đáy hàng khơi luôn phải phụ thuộc vào thay đổi của biển cả và luôn đặt trong mức “báo động đỏ”. Mà sự thay đổi ấy thì không ai có thể đoán trước được, đôi khi bão, gió, sóng lớn đến chỉ trong chớp mắt, mà chúng ta không thể làm gì ngoài việc cố gắng khắc phục hậu quả đã xảy ra. Trong một trận bão với những cơn sóng cao hơn chục mét, một người bạn chòi đơn độc trong căn chòi giữa muôn trùng biển cả, phía trên là bầu trời tối đen như mực, không thể đoán trước được chuyện gì sẽ xảy ra.












Anh Thạch Văn Phong nhớ lại: “Có lúc vào giữa đêm đang nằm trong chòi canh, bỗng dưng có những trận sóng phủ trùm khỏi nóc nhà, toàn thân ướt sũng, cùng với những trận gió biển thổi dồn dập, lạnh run cả người”. Anh Thanh tiếp lời: “Những lúc gió lớn căn chòi cứ lắc lư liên hồi, ngồi trong chòi mà không khỏi lo sợ”.

Công việc của các bạn chòi không chỉ có canh con nước chảy để đóng đáy, mà còn phải thức canh để ra hiệu không cho các tàu đánh cá, tàu buôn chạy vào khu vực đáy. Anh Phong cho biết: “Không chỉ phải đối mặt với sự khắc nghiệt của thời tiết, sóng biển khi đóng đáy và lúc kéo đáy mà bất cứ một hành động nào, chỉ cần sơ ý một tí đều có thể nguy hiểm đến tính mạng”.

Biết nguy hiểm nhưng vẫn liều

Ông Trần Minh Hoàng cho biết thêm: “Các bạn chòi đa phần là dân di cư từ Trà Vinh, Bến Tre và các hộ nghèo không học vấn, không có tư liệu sản xuất trên địa bàn tỉnh”.

Anh Thái Văn Thanh tâm sự: “Dẫu biết theo nghề bạn chòi là ngày đêm phải đối mặt với hiểm nguy. Nhưng do điều kiện khó khăn không còn cách nào khác, vì cuộc sống, vì gia đình nên đành phải bám lấy biển mà sống”.

Thấy anh Thanh “tâm trạng” quá, anh Phong pha trò: “Nói vậy chứ làm bạn chòi đáy hàng khơi cũng có nhiều cái vui lắm. Nhất là lúc kéo đục (phần đuôi nơi đựng cá, tôm) lên, thấy tôm, cá đầy ắp là không còn mệt nhọc gì nữa”. Có lẽ, đó là cách các bạn chòi an ủi nhau trong cuộc mưu sinh lắm nhọc nhằn và đôi khi phải đánh đổi bằng sinh mạng.












Theo cách “ăn chia” giữa các bạn chòi và chủ, cứ một bạn chòi quản lý 12 miệng đáy sẽ được hưởng trọn 2 miệng khi thu hoạch, có nhiều hưởng nhiều, có ít hưởng ít. Chính vì thế, vào những lúc không phải mùa thu hoạch chính của nghề đáy hàng khơi, các bạn chòi cũng phải bám trụ trên biển hằng tháng, nào là giặt lưới, canh nước đóng đáy, kéo đục, thức canh tàu…

Thế nhưng, thu nhập của họ chẳng được là bao, có khi còn chịu cảnh trắng tay. Mùa được xem là “ăn nên làm ra” của nghề này là lúc gió chướng, từ tháng 9 đến tháng 12 âm lịch.

Các bạn chòi cho biết: “Những năm gần đây nghề đóng đáy biển thất bát, khi vào mùa vụ chính, mỗi con nước có thể kiếm được 2-3 triệu đồng. Còn những lúc khác thì có khi 500-600 ngàn đồng, có lúc ít hơn”.

Có tìm hiểu mới biết đáy hàng khơi đúng là nghề quá cực nhọc, lắm hiểm nguy. Một tháng bạn chòi và gia đình chỉ có thể sống vui vẻ, trút bỏ lo âu trong vài hôm, đó là những ngày giữa hai con nước. Còn những khi các bạn chòi cuốn hành lý trở về với biển khơi cũng là lúc người thân họ phải canh cánh trong lòng nhiều lo lắng.

Chị Trần Thu Thủy, vợ của một bạn chòi, trăn trở: “Mỗi lúc chồng ra biển là chị em tôi không sao ăn ngon, ngủ yên cho được, chỉ trông đến ngày về. Hằng ngày tôi thường xuyên theo dõi dự báo thời tiết và cầu nguyện cho sóng yên biển lặng. Nghe đài báo có bão mà chồng chưa vào tới đất liền là nôn cả ruột gan. Nhiều lần chúng tôi định chuyển sang nghề khác nhưng không biết làm gì khi trong tay chẳng có nghề, cũng không có đất sản xuất”



Nguyễn Phú - http://www.baocamau.com.vn