Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam vừa liên kết NXB Trẻ xuất bản ấn phẩm Võ cổ truyền Việt Nam, một tác phẩm võ học hết sức đặc sắc. Có thể nói đây là một pho “toàn thư” về môn võ cổ truyền dân tộc, từ lịch sử đến lý luận và hệ thống 18 bài võ thống nhất.
Ngồi mở quyển sách còn thơm mùi giấy mới, võ sư Lê Kim Hòa như mân mê từng trang chữ, khuôn mặt ngời lên hạnh phúc. Là đồng tác giả, với vai trò chủ biên, ông dường như biết rõ ngọn ngành những bước đi thăng trầm của võ cổ truyền dân tộc qua từng cột mốc thời gian. Ông bồi hồi nhớ lại: “Hơn hai mươi năm trôi qua tưởng chừng như mới ngày nào. Võ cổ truyền từ những bước đi chập chững ban đầu, bây giờ đã có những bước tiến vượt bậc. Biết bao công sức và tâm huyết của các vị võ sư nhiều thế hệ đã đóng góp, vun bồi nên hào khí thượng võ. Nhiều người đã ra đi nhưng tên tuổi của họ vẫn còn gắn liền với bao huyền thoại võ lâm. Đó là các lão võ sư Đoàn Tâm Ảnh, Mai Văn Phát, Phạm Đình Trọng, Phạm Cô Gia, Trần Tiến, Ngô Bông…”.
Võ cổ truyền Việt Nam phong phú, đa dạng và giàu tính nghệ thuật - Ảnh: Cao Thụ |
Từ nhiều nguồn cứ liệu có thể khẳng định võ cổ truyền có bề dày theo suốt chiều dài dựng nước và giữ nước của dân tộc. Thế nhưng những biến động lịch sử đã có lúc làm cho võ cổ truyền bị mất mát, thất truyền và tản mác trong dân gian. Nhiều dòng võ, võ phái đã hình thành tự phát, không có tiếng nói chung. Đến lúc cần nhận diện bản sắc võ cổ truyền là gì, thật khó tìm ra một lời giải đáp trọn vẹn. Đề cập đến giai đoạn khó khăn này, sách Võ cổ truyền Việt Nam viết: “Đến năm 1987 các môn võ mới được phép hoạt động chính thức. Các ban chuyên môn ra đời nhằm bước đầu ổn định, xây dựng chương trình và tổ chức các cuộc hội diễn thi tài cống hiến cho quần chúng những nét hay nét đẹp. Có lẽ chưa bao giờ tâm tư giới võ rộng mở như vậy và phần đông mong muốn có được hệ thống huấn luyện thống nhất, nhằm xây dựng được một nền võ thuật, võ học đúng tầm”.
Bấy giờ TP.HCM là một trung tâm võ thuật lớn, với hơn 50 võ phái đăng ký hoạt động. Ý tưởng tìm kiếm, tuyển chọn một số bài bản chung để quy tụ các võ phái bắt đầu từ đây. Khi Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam ra đời 1991 cũng là lúc mọi sự chuẩn bị đã chín mùi. Hội nghị chuyên môn toàn quốc lần thứ nhất tổ chức tại TP.HCM tháng 4.1993 đã tập hợp 23 đoàn đại biểu với sự có mặt hơn 50 võ sư, chuẩn võ sư. Dưới sự chủ trì của TS Đoàn Thao, Phó tổng cục trưởng Tổng cục TDTT, một bầu không khí làm việc, thảo luận sôi nổi, mổ xẻ đến nơi đến chốn những vấn đề còn gút mắc. Qua 8 ngày luận võ, đường đi nước bước như vỡ vạc dần ra, quần hùng càng xích gần nhau lại. Có nhiều bài võ được đem ra giới thiệu, một hội đồng các võ sư đã xem xét, bình chọn. Các bài Hùng kê quyền, Lão hổ thượng sơn, Tứ linh đao, Thái sơn côn được chọn đưa vào chương trình thống nhất.
Bìa sách Võ cổ truyền Việt Nam |
Không khí hồ hởi, xúc động lòng người đến độ có võ sư khi lên phát biểu đã bật khóc. PGS- TS Mai Văn Muôn khi ấy đã nhận định: “Kể từ thời Quang Trung dựng cờ khởi nghĩa, trải qua mấy trăm năm võ cổ truyền mới có được một khí thế hào hùng như vậy”. Một trong những chứng nhân của ngày ấy, võ sư Trần Xuân Mẫn viết trong hồi ký: “Đó là cái ngày vô cùng hạnh phúc khó tìm thấy lại một lần nữa trong quãng đời võ nghiệp của mỗi chúng ta”. Từ hội nghị này, nền móng ban đầu cho việc chấn hưng nền võ học nước nhà đã được xác lập. Con đường đã rộng mở, các địa phương cả nước tổ chức sưu tầm nhiều bài võ hay còn lưu truyền trong các dòng võ gửi về Liên đoàn tham gia tuyển chọn trong các kỳ hội nghị. Một khối lượng đồ sộ nhiều bài võ hay, lạ, được truyền bá lâu đời cho thấy nền võ học cổ truyền vô cùng phong phú, đa dạng. Ở các kỳ hội nghị chuyên môn võ thuật cổ truyền toàn quốc lần thứ hai và lần ba, chọn ra các bài Lão mai quyền, Siêu xung thiên, Ngọc trản quyền, Bát quái côn.
Để các bài quyền từ nhiều nguồn khác nhau hợp thành một hệ thống, cần có một nền móng căn bản. “Trong giai đoạn khôi phục, phát triển võ cổ truyền Việt Nam hiện nay, việc hệ thống hóa phần căn bản công trở thành quy định bắt buộc. Thống nhất được phần căn bản công chính là tiêu chuẩn hóa cách diễn đạt, cách ghi chép, cách truyền bá và đáp ứng được công tác biên soạn giáo trình. Và lại càng trở nên cấp thiết trong thời kỳ hội nhập, tranh tài với các môn võ khác trên thế giới” (Trích Võ cổ truyền Việt Nam). Có nhiều kỹ thuật đặc trưng chỉ có ở võ cổ truyền như 5 bộ ngựa: ngựa chiếc, ngựa biên, ngựa ba chân hổ… Bộ bông pháp với các kỹ thuật múa tay liên hoàn: bông mở, bông khép, bông chuyền, bông hoa sen…
Nét độc đáo của võ cổ truyền Việt Nam là các bài võ luôn có bài thiệu. Thiệu là bài văn vần mô tả, mã hóa các động tác liên hoàn biến hóa trong một cuộc đấu với đối thủ vô hình. Đúng như ông cha ta từng nói “trong võ có văn”. Lâu ngày, lời thiệu cũng có sai lạc. Các nhà nghiên cứu Hán-Nôm như hòa thượng Thích Như Hiệp được mời tham gia hội nghị để biên tập, hiệu chỉnh câu thiệu đúng với động tác. Nhà nghiên cứu đông y và triết học cổ phương Đông Lê Văn Sửu đã trình bày khái quát những vấn đề cơ bản của thuyết âm dương, ngũ hành trong võ học cổ truyền.
Đến tháng 4.2011, Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam đã tổ chức 13 kỳ hội nghị chuyên môn, tuyển chọn, hệ thống 18 bài võ quy định, tiến hành phân thế 10 bài, cùng soạn thảo các bài thi đối luyện thống nhất. Hình hài của võ cổ truyền dân tộc đã khá hoàn chỉnh để tiến tới xây dựng một nền quốc võ trong tương lai.
Kỳ 2: Truyền thống thượng võ
Từ thuở dựng nước, dân tộc Việt quần cư trên vùng đất không rộng, thường xuyên gánh chịu nhiều thiên tai, lại ở bên cạnh nước láng giềng lớn hơn gấp nhiều lần, luôn tìm cách gây hấn, chèn ép, đe dọa và xâm lấn. Đứng trước sự tồn vong của mình, người Việt buộc phải chung lưng đấu cật, sẵn sàng đương đầu chống giặc ngoại xâm. Trong tư thế và tâm thế như vậy, dân tộc Việt đã sáng tạo một hệ thống chiến đấu đặc dị: lấy đoản binh thắng trường trận, lấy ít thắng nhiều, lấy yếu thắng mạnh.
Nói đến truyền thống và tinh thần thượng võ, có không ít sự ngộ nhận. Chúng tôi nhớ có lần dự buổi tổng kết của một võ phái cổ truyền, có cả ngàn người tham dự, một vị giáo sư có tên tuổi lên phát biểu: Ông cha ta vốn trọng văn khinh võ, người Việt vốn không chuộng võ nghệ. Rồi ông dẫn chứng bằng câu: Quan văn cửu phẩm đã sang/Quan võ tứ phẩm còn mang gươm hầu. Lời phát biểu ấy đã gây nên một làn sóng giận dữ. Lý giải sự nhầm lẫn này, võ sư Lê Kim Hòa có ý kiến thật sâu sắc: Xưa nay việc trị nước thuộc văn ban, giữ nước thuộc võ ban. Nếu nước không còn thì lấy gì cai trị? “Mang gươm hầu” ở đây chính là bảo vệ sự an nguy của triều đình, cũng là giữ yên xã tắc.
Song đấu U Linh thương và Song Phượng kiếm - Ảnh: Đình Phú |
Tinh thần thượng võ được hiểu là chuộng nghiệp võ, nghề võ. Mở rộng ra trong ứng xử là thái độ và khí phách hào hiệp. Trong quá khứ, cha ông ta khi đánh thắng kẻ thù, không bao giờ bắt giết tù binh. Sử sách còn ghi chép bao lần tù binh giặc được “trải thảm” thả về để giữ sự hòa hiếu với lân bang. Điều ấy chỉ đúng một nửa, nửa còn lại chính vì dân tộc Việt có đức hiếu sinh, có văn hóa thượng võ không đánh người ngã ngựa. Như thời Lý Thái Tông khi bình Chiêm bắt về hơn 5.000 tù binh, đã ban cho ruộng đất lập thành phường ấp làm ăn. Tinh thần thượng võ ấy đi suốt chiều dài lịch sử của dân tộc.
Trọng việc võ, khuyến khích luyện võ chính là hun đúc dân khí, giữ gìn khí mạch dân tộc. Sách Võ cổ truyền Việt Nam viết: “Người xưa dạy rằng: Tập võ chi Đạo có thể được cường thân, mẫn trí. Một người tập võ thì được cường thân, một nhà tập võ thì được cường tộc. Đường lối võ thuật trước tiên là phải trọng võ đức, muốn có võ đức phải hiểu rõ công lý, muốn hiểu rõ công lý thì phải có học vấn”. Võ thuật không chỉ là loại hình văn hóa vận động mà còn là một hiện tượng văn hóa thần kỳ với những công phu đặc dị, công năng khí công tuyệt kỹ, một hệ thống triết học uyên thâm gắn liền với thuyết âm dương, ngũ hành và dịch lý.
Để hiểu rõ hơn ông cha ta từng chuộng võ, trọng võ như thế nào ta có thể đọc qua trích đoạn: “Kể từ đời tiền Lê (năm 986) nhà nước phong kiến đã chọn lựa những trai tráng khỏe mạnh, biết võ nghệ để bổ sung vào quân ngũ. Năm 1253 triều Trần cho lập Giảng võ đường, một trường rèn luyện võ cho hoàng thân quốc thích là các võ tướng. Nhờ dạy và học võ, thời Trần đã xuất hiện nhiều danh tướng như Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư, Phạm Ngũ Lão… Chiến công của họ đã làm nên chiến thắng vẻ vang của dân tộc Việt trước quân Nguyên - Mông hung hãn một thời. Dưới thời vua Lê Dụ Tông (năm 1721), trường đào tạo võ đầu tiên cho quảng đại quần chúng gọi là Võ học sở được mở tại kinh thành Thăng Long. Tới thời vua Lê Đại Tông, chúa Trịnh Cương định ra các kỳ thi võ nhằm tuyển chọn nhân tài. Các tạo sĩ (tiến sĩ võ) luôn được trọng dụng. Thời hậu Lê, Võ Miếu cũng đã được xây dựng (năm 1740) để thờ những binh gia nổi tiếng. Đến triều Nguyễn, năm 1835 vua Minh Mạng chuẩn tấu theo kiến nghị của Bộ Lễ cho xây Võ Miếu thờ các danh tướng như Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dật… Các tạo sĩ đậu trong các kỳ thi võ cũng được khắc tên lên bia tiến sĩ nhằm tôn vinh”. (Nguồn: Võ cổ truyền Việt Nam).
Nếu nói võ học qua các đời được chú trọng như vậy tại sao bị mai một thất truyền? Lúc còn sống, PGS-TS Mai Văn Muôn có bài phân tích rất hay. Theo ông, kể từ khi xuất hiện hỏa khí (súng ống) của người phương Tây, bạch khí (gươm đao) đã bị đánh bại. Lại thêm dưới thời thuộc Pháp, nhà cầm quyền đã cấm võ, cấm truyền bá võ một cách ngặt nghèo. Việc sử dụng chữ Hán bị bãi bỏ, chuyển sang dùng chữ quốc ngữ cũng làm bao nhiêu kinh sách võ học bị thất tán. Nhưng võ dân tộc không mất hẳn, vẫn âm thầm chảy trong mạch sống của nhiều dòng tộc và được lưu giữ đến ngày hôm nay.
Sự phục hưng của võ cổ truyền mấy mươi năm qua chính là nhờ tinh thần thượng võ của biết bao người âm thầm cống hiến công sức, không màng lợi danh. Có thể kể như võ sư Lê Kim Hòa, một trong những “kiến trúc sư” chính hoạt động không mệt mỏi gầy dựng phong trào, xây dựng chương trình huấn luyện thống nhất. Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam Trương Quang Trung luôn “đứng mũi chịu sào” ở những thời điểm khó khăn nhất. Võ sư Trương Văn Bảo dù ở chốn “thâm sơn cùng cốc” vẫn tả xung hữu đột, có mặt kịp thời ở những nơi cam go nhất…
Khôi phục lại hoạt động của võ cổ truyền không chỉ là bảo lưu truyền thống, hoặc đưa ra các sân chơi thể thao quốc tế, dù đó cũng là mục tiêu. Cái chính là làm sống lại tinh thần thượng võ trong mọi tầng lớp, đặc biệt là giới trẻ. Có thể nói không ngoa rằng chính với tinh thần võ sĩ đạo, người Nhật đã ngoan cường đứng lên trong hoang tàn sau chiến tranh. Người Hàn Quốc, Trung Quốc luôn coi võ thuật dân tộc của họ là quốc bảo. “Một ngày nào đó võ cổ truyền có mặt ở học đường, phủ kín các sân trường đại học sẽ là ngày hạnh phúc nhất của những người theo đuổi nghiệp võ như chúng tôi”, đó là những lời nói chân tình, tâm huyết của làng võ cổ truyền mà võ sư Lê Kim Hòa đã thay mặt bộc bạch trong một ngày đầu năm mới.
Kỳ 3: Tinh hoa võ thuật
Giới võ thuật xưa nay vẫn lưu truyền câu nói “Văn vô đệ nhất, võ vô đệ nhị”, hàm ý chỉ con nhà võ luôn độc tôn xưng hùng, không chịu ai dù kẻ ấy đứng hàng thứ hai sau mình.
Việc hợp nhất võ lâm là chuyện vô cùng khó. Đọc Tiếu ngạo giang hồ của tác giả Kim Dung mới thấy đôi khi chỉ vì chút hư danh gọi là minh chủ võ lâm mà một Nhạc Bất Quần bất chấp thủ đoạn tàn độc. Một Lâm Bình Chi vì mối cừu thù tự hủy hoại thân mình (dẫn đao tự cung) để luyện bằng được Tịch tà kiếm pháp. Thế nhưng trong giang hồ cũng có những con người cao thượng, đẹp đẽ thuần phác như Lệnh Hồ Xung với mối tình trong sáng, thơ mộng cùng “ma nữ” Nhậm Doanh Doanh. Nói gần, nói xa như vậy để thấy chuyện các bậc thầy chịu ngồi chung lại dưới một “bầu trời” võ thuật là hết sức nan giải.
Võ cổ truyền Việt Nam xây dựng được một hệ thống, thống nhất được hơn một trăm phái võ trong cả nước là chuyện tưởng chừng như “trong mơ”. Võ sư Lê Văn Lắm, Tổng thư ký Hội Võ cổ truyền TP.HCM, trong một lần luận đàm võ thuật cho rằng: “Có đại nghĩa ắt có đại khí. Vì nghĩa lớn mà mọi người tâm khí tương đồng, chung sức chung lòng làm nên việc lớn”. Việc tuyển chọn các bài võ tiêu biểu được tiến hành cẩn trọng, khách quan và khoa học, hội tụ được tinh hoa võ học nước nhà. Mỗi bài quyền đều có một giai thoại, xuất xứ, có sức sống bền bỉ lâu đời, hàm chứa những đòn thế tuyệt kỹ. Nếu ở các môn võ khác hệ thống quyền đi theo trình tự từ thấp đến cao, thì ở hệ thống võ cổ truyền nếu võ sinh nắm vững nền tảng từ căn bản công có thể luyện tập bất cứ bài võ cao cấp nào một cách dễ dàng.
“Là một đất nước có 54 dân tộc anh em, đa dạng nhưng chung một nền văn hóa, việc tiếp tục nghiên cứu nghệ thuật chiến đấu, bí thuật dưỡng sinh, khí công của các dân tộc để hình thành các bài võ dưỡng sinh, giúp nâng cao sức khỏe và thể chất của mọi lứa tuổi là mục tiêu hàng đầu. Đối với 18 bài võ thống nhất tiếp tục nghiên cứu phân thế, hoàn thiện cơ sở lý luận”. Đó là những dự định ấp ủ mà võ sư Lê Kim Hòa, Phó chủ tịch, trưởng ban chuyên môn Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam tiết lộ.
Để cảm nhận được cái hay, cái đẹp của võ cổ truyền, hãy thử nhận diện một vài bài võ. Những bài phổ thông nhiều người biết đến dù chưa tập qua như Lão mai, Ngọc trản (thứ nhất Lão mai, thứ hai Ngọc trản). Lão mai độc thọ nhất chi vinh/Lưỡng túc khinh khinh tấn bộ hành... Bài võ này được phổ biến rộng, có nguồn gốc từ võ Tây Sơn, mô phỏng hình ảnh cây mai già đơn độc nhưng vững chãi, thân thủ pháp khai triển những vòng tròn mềm mại như những cánh hoa rơi rụng trong gió ẩn chứa một uy lực vô song. Các bước tiến thoái biến ảo dị thường với vẻ đẹp đầy sống động. Ngọc trản quyền với lời thiệu Ngọc trản Ngân đài/Tả hữu tấn khai/Thập tự luyện diệp/Liên đả sát túc... ý nghĩa sâu xa, còn nhiều tranh cãi để giải mã hình tượng “chén ngọc trên đài bạc”. Ngọc trản có xuất xứ từ miền đất võ Bình Định, được lưu truyền rộng rãi trong dân gian, gắn liền với nhiều giai thoại. Bài này được tuyển chọn từ môn phái Sa môn võ đạo của lão võ sư Phạm Đình Trọng, tự là Sa Vân Long lừng lẫy một thời.
Võ sư Trương Hùng (trái) và Ngô Bông phân thế Bát quái côn - Ảnh: C.T |
Hùng kê quyền là bài quyền bí truyền, tương truyền được Nguyễn Lữ, một trong Tây Sơn tam kiệt mô phỏng từ thế đánh của gà chọi sáng tạo nên. Đây là bài quyền lạ, có nhiều đòn đánh dũng mạnh, dứt điểm, chiêu thức hiểm hóc. Qua thời gian tưởng chừng bài võ đã thất truyền, bất ngờ tại Hội nghị chuyên môn võ cổ truyền toàn quốc lần thứ nhất, lão võ sư Ngô Bông, truyền nhân Hùng kê quyền xuất hiện. Khi ông thi triển quyền công, thần thái linh hoạt, bộ pháp biến ảo đã thuyết phục ngay hội đồng các võ sư. Bài được chọn ngay trong đợt đầu, có sức thu hút mê hoặc đối với nhiều người tập võ. Tại Liên hoan võ thuật truyền thống thế giới tổ chức tại Chungju, Hàn Quốc tháng 9.2004, lão võ sư Ngô Bông khi ấy đã 77 tuổi ra đi quyền đã tạo nên tiếng vang lớn với nhiều lời ngợi khen.
Vốn là bài võ trấn môn, Bát quái côn từ lâu chỉ truyền dạy trong dòng tộc họ Trương ở đất Phú Yên. Đây là bài trường côn đánh rộng chống cùng lúc nhiều đối thủ, tấn pháp di chuyển theo đồ hình bát quái. Đặc biệt, kỹ thuật loang côn tới độ tuyệt kỹ, chỉ thấy bóng côn vun vút che phủ làm người xem liên tưởng tới những võ nhân huyền thoại từng múa côn, đao bảo vệ thân mình trước hàng trăm cung thủ xạ tiễn giữa trận tiền. Bát quái côn là bài võ khó, muốn tập luyện thuần thục phải mất nhiều năm mới lĩnh hội nổi. Khi võ sư Trương Hùng lần đầu biểu diễn bài này tại Hội nghị chuyên môn võ cổ truyền lần thứ ba (tháng 4.1995), toàn thể các võ sư trong hội đồng đều đứng dậy vỗ tay. Do các bài võ đều có nét hay độc đáo khác nhau nên không thể xếp hạng thứ bậc, tuy vậy vẫn có thể nhận định đây là bài võ vô cùng đặc sắc.
Bài Lôi long đao do “Đô đốc Võ Văn Dũng nghiên cứu chiêu pháp soạn ra tại vùng đất Tây Sơn Hạ mùa thu năm Mậu Tý (1768). Ông tụ hội, chiêu mộ nhiều trang hào kiệt kéo đến ra mắt anh em nhà Tây Sơn, được Nguyễn Nhạc tin dùng. Người có công lưu giữ, sao lục bài võ này là đệ tử thứ 8 dòng Hư Minh tên Nguyễn Trung Như, hiệu Hư Linh Ẩn. Đây là loại binh khí dài chỉ dùng cho các vị chỉ huy thời xưa khi ra trận đấu với nhiều quân địch. Muốn tập luyện phải có sức khỏe hơn người, luyện thật nhuần nhuyễn mới sử dụng được”. (Trích Võ cổ truyền Việt Nam).
Có thể nói mỗi bài quyền là một câu chuyện gắn liền với một giai đoạn lịch sử, chứa đựng những nội hàm uyên thâm mà ông cha đã gửi gắm lại. Giữ gìn và phát huy võ cổ truyền chính là làm sáng tỏ hơn bản sắc văn hóa dân tộc.
Kỳ 4 : Nhìn ra thế giới
Trong không khí rộn ràng của năm mới, một số võ sư võ cổ truyền mang trọng trách lại đang âm thầm chuẩn bị cho giải quốc tế võ cổ truyền Việt Nam lần thứ 3, tổ chức tại TP.HCM vào tháng 7.2012.
Giải dự kiến sẽ có 15 nước tham dự với khoảng 30 đoàn võ thuật. Điểm mới của mùa giải năm nay là ngoài phần hội diễn, thi quyền còn có thi đấu đối kháng. Nghe qua tưởng chừng đơn giản nhưng thực tế vô cùng phức tạp, đòi hỏi những người tổ chức phải thật sự chắc tay mới làm được.
Ở giải quốc tế lần 1 và 2 (2006 - 2008), tuy ban đầu còn mới mẻ nhưng trong khí thế hào hùng, các đoàn võ thuật quốc tế thi tài, biểu diễn thành công ngoài mong đợi. Giải quốc tế võ cổ truyền đã được đưa vào hệ thống giải liên đoàn quốc gia. Chúng tôi đã gặp nhiều gương mặt võ sư, võ sĩ các nước, họ đến Việt Nam với tất cả sự háo hức, say mê tìm tòi cái hay cái lạ của võ thuật Việt Nam.
Võ sư Christophe Dalmaz lúc ấy 35 tuổi, làm việc trong ngành văn hóa, thể thao nước Pháp. Trước khi đến với võ cổ truyền, anh đã học qua judo, jujitsu, muay Thái. Có thâm niên 25 năm học võ, Christophe chọn “nhập môn” võ cổ truyền và hiện đang có võ đường riêng với khoảng 150 võ sinh. Giọng nói sôi nổi, Christophe cho rằng: “Cái khác biệt của võ cổ truyền là ngoài học kỹ thuật chiến đấu, mọi người còn nắm bắt được văn hóa, lịch sử và triết lý sống. Như bài Lão hổ thượng sơn, tuy lấy hình tượng muông thú nhưng ý nghĩa sâu xa của nó là vượt qua thử thách nghiệt ngã của cuộc đời. Càng học, càng cảm nhận, tôi càng mê tinh thần văn hóa của võ cổ truyền”.
Nữ võ sĩ hồng đai Cecile Savioz đang làm cho hãng hàng không Corsairfly (Pháp) cũng đã có 5 năm học võ cổ truyền. Ngoài thời gian rong ruổi theo các chuyến bay, khi về lại mặt đất là cô chạy ngay tới võ đường để làm... hướng dẫn viên. Cô gái mang hai dòng máu Pháp - Việt nói từ khi học võ cổ truyền, cô dường như khám phá nhiều điều mới lạ về đất nước có một phần nguồn cội của cô. Hàng mấy trăm con người từ nhiều vùng đất trên thế giới về với đất tổ võ cổ truyền đều có một tấm lòng yêu mến Việt Nam. Họ đến từ Pháp, Nga, Ý, Thụy Sĩ, Mỹ... Qua con đường võ thuật, đất nước Việt Nam dường như xích gần lại hơn với bạn bè thế giới.
Việt Nam cũng đã tổ chức thành công 3 kỳ liên hoan quốc tế võ cổ truyền tại miền đất võ Tây Sơn - Bình Định. Đây là sự kiện lớn, đậm đà bản sắc văn hóa, lôi cuốn hàng chục ngàn du khách cả nước tham dự. Những ai đã từng tham dự liên hoan võ thuật chắc chắn cảm thấy lòng tự hào vì dân tộc Việt có một nền võ học thâm hậu, giàu tính nghệ thuật, lôi cuốn nhiều người khắp năm châu theo học.
Để võ cổ truyền có được sự lớn mạnh như ngày hôm nay, ngoài nền móng võ thuật trong nước, còn có biết bao võ sư người Việt lặng lẽ truyền bá võ cổ truyền ở nước ngoài. Thập niên 1940 có trưởng lão Nguyễn Đức Mộc mở võ đường Sơn long quyền thuật tại Pháp. Võ phái này ngày nay phát triển mạnh ở nhiều nước như Canada, Tahiti, Algeria, Libya, Ý, Thụy Sĩ... Những năm 1960, có các võ sư nổi danh như Nguyễn Trung Hòa, Vĩnh Long, Nguyễn Dân Phú, Hồng Sắc Kim... Thế hệ sau này có Phạm Xuân Tòng, Phan Toàn Châu, Nghiêm An Thạch, Nguyễn Công Tốt...
Thử điểm qua một số võ phái, tổ chức võ thuật đang hoạt động mạnh. Môn qwan ki do (quán khí đạo) do võ sư Phạm Xuân Tòng sáng lập đầu năm 1981. Hiện nay, qwan ki do có mặt ở hơn 30 nước. Võ sư Phạm Xuân Tòng là người Việt đầu tiên được Tổ chức FFKDA Pháp phong đai đen 8 đẳng. Võ sư Nguyễn Công Tốt sáng lập môn Việt vũ đạo hiện có 50 võ đường tại Pháp và hiện diện ở 15 quốc gia. Tại Bỉ, có võ sư Đồng Văn Hùng với võ phái Tráng sĩ đạo, ở Đức có Chu Tấn Cường với võ phái Võ đạo Việt Nam, Thụy Sĩ có Võ lâm Việt Nam của võ sư Huỳnh Đại Hải. Tổng hội Phát triển võ thuật thế giới do võ sư Lý Hoàng Tùng làm chủ tịch tập hợp nhiều võ phái hoạt động mạnh tại Mỹ. Tại Úc, có môn võ vovido lan rộng đến các trung tâm thể thao và sinh hoạt cộng đồng vùng Tây Úc...
Đầu thập niên 1990, có đợt xuất chinh ào ạt các võ sư võ cổ truyền qua Nga và Belarus “mang chuông đi đánh xứ người”. Ngoài biểu diễn công phu, một số ở lại dạy và truyền bá võ cổ truyền. Có thể kể như võ sư Lê Kim Hòa (Thanh long võ đạo), Lâm Thành Khanh (Hồng gia quyền), Ngô Xuân Bính (Nhất Nam). Tiến sĩ Lê Việt Nga, thời còn du học ở Moscow (Nga) đã giúp đỡ cho nhiều đoàn biểu diễn, khi nhắc lại còn bồi hồi: “Ngày ấy nước bạn lộn xộn và gian khổ lắm. Nhưng chính nhờ công lao các chú, các thầy đi khai phá trong đợt đó mà võ Việt mới phát triển mạnh ở Nga và Đông Âu như ngày hôm nay”.
Võ sư Lê Kim Hòa, võ sư Trương Văn Bảo cũng có nhiều chuyến đi qua các nước châu Âu truyền dạy các bài võ thống nhất làm nền tảng cho việc xúc tiến thành lập Liên đoàn Võ cổ truyền Việt Nam tại Pháp (2010), Liên đoàn Võ cổ truyền Việt Nam tại Ý (2011). Một số khu vực của Nga cũng đã thành lập liên đoàn võ cổ truyền. Và theo võ sư Lê Kim Hòa, đại diện các nước Đức, Bỉ, Thụy Sĩ cũng đã liên hệ làm việc với Liên đoàn Võ cổ truyền Việt Nam để lên kế hoạch thành lập liên đoàn võ cổ truyền trong thời gian tới.
Với sự phát triển mạnh mẽ trong và ngoài nước, điều kiện để thành lập Liên đoàn Thế giới võ cổ truyền Việt Nam kể như đã chín muồi. Đây không chỉ là thời cơ mà còn là vận hội để võ cổ truyền dân tộc đóng góp sâu sắc hơn vào đối ngoại văn hóa trong thời đại toàn cầu.
Cao Thụ - Báo Thanh Niên