Lý Phát - Đỗ Tiên |
Hiện nay ở phường Chánh Nghĩa, thị xã Thủ Dầu Một có 2.780 người Hoa đang sinh sống, trong đó hầu hết là người Hoa đến từ huyện An Khê - Phước Kiến- Trung Quốc.
An Khê là một huyện miền núi nghèo nàn lạc hậu. Thời phong kiến vùng quê này luôn xảy ra cảnh “bán vợ đợ con”, cuộc sống kham khổ, đói rét. Một số người bất nhẫn trước cảnh bị áp bức, nghèo hèn đành rời bỏ quê hương đi tìm nơi làm ăn sinh sống. Họ lên tàu đến những đất nước lân cận, trong đó có Việt Nam. Những người tiên phong đến định cư tại Chánh Nghĩa ngày nay có lẽ chỉ vào khoảng thế kỷ XIX, muộn hơn so với Biên Hòa và Sài Gòn. Bởi vì căn cứ vào thời gian lập miếu xưa nhất là miếu Thiên Hậu khoảng giữa thế kỷ XIX. Và, lò gốm xưa nhất ở Chánh Nghĩa cũng được xây dựng khoảng giữa thế kỷ XIX. Đó là lò Vương Lương ở khu vực Bà Lụa ngày nay. Tuy nhiên, dòng chảy di dân An Khê (Ta) Sang Chánh Nghĩa nhiều nhất khoảng đầu thế kỷ XX, mà cao trào là từ những năm 1930 đến 1948. Thời kỳ mà Trung Quốc có nhiều biến động lịch sử. Chế độ phong kiến đã bị lật đổ bởi cuộc cách mạng của Quốc Dân đảng. Nhưng khi lãnh đạo Tôn Trung Sơn mất năm 1925, Tưởng Giới Thạch đã phản bội tư tưởng của Tôn Trung Sơn và xảy ra sự đối đầu với Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nội chiến lại xảy ra, tình hình hỗn loạn, thổ phỉ phá quấy, trộm cắp, cướp bóc liên miên. Vùng đất nghèo càng thêm nghèo, trốn sự lam lũ đói rách, trốn bị bắt lính, trốn sự bất ổn của xã hội, họ rời bỏ quê hương ngày càng nhiều. Những người đi trước bắt đầu đón những người thân trong gia đình, bà con trong tộc họ, xóm giềng, bạn bè... lần lượt di dân sang hợp thành một cộng đồng người Hoa đông đúc như ngày nay.
Người Hoa ở Chánh Nghĩa đa phần là họ Lý, họ Vương và một số ít họ khác. Ban đầu họ đến vùng đất mới làm thuê để sinh sống, chủ yếu là làm thợ lò gốm. Từ hai bàn tay trắng, qua thời gian làm việc cật lực cộng với chiến thủ cao, có một số người đã xây dựng lò gốm để làm chủ. Khu vực Chánh Nghĩa có địa hình và địa thế thuận lợi để đắp lò làm gốm. Thế là các lò gốm dần dần mọc lên bên cạnh khu vực Lái Thiêu, Chòm Sao, Tân Khánh... năm 1910 ở Phú Cường (khu vực Chánh Nghĩa ngày nay lúc bấy giờ thuộc làng Phú Cường) đã có 14 lò gốm, cho đến nay ở phường Chánh Nghĩa đã có gần 100 lò gốm. Người Phước Kiến ở Chánh Nghĩa chỉ một số ít làm các nghề khác như buôn bán, rang xay cà phê còn thì đa số làm thợ lò gốm.
Gốm Chánh Nghĩa chủ yếu là gốm gia dụng như chén, tô, dĩa, thố, lu, khạp... phong cách thô sơ, mộc mạc không có nét cầu kỳ, tinh tế như gốm Lái Thiêu. Khu vực tập trung các lò gốm trải trên một diện tích rộng. Vì vậy, nơi đây còn có địa danh là Lò Chén. Các tên gọi “khu lò chén”, “ngã ba Lò Chén” vẫn còn tồn tại cho đến nay. Gốm Chánh Nghĩa cũng đã góp phần tạo nên sự thăng hoa của gốm Bình Dương trên khắp cả nước, trở thành một trong các ngành nghề truyền thống đặc trưng của Bình Dương.
Người Hoa khi rời bỏ quê hương, tài sản mang theo có thể rất ít. Nhưng với bản tính cần cù nhẫn nại, chịu khó, họ đã tạo nên cơ ngơi sung túc trên quê hương thứ hai này.
Khu vực Lò Chén dân cư ngày càng đông đúc. Người Hoa ở đây hòa nhập khá tự nhiên vào cộng đồng người Việt. Tuy nhiên, họ vẫn luôn giữ những nét đặc sắc trong văn hóa của dân tộc mình.
Ở bất cứ cộng đồng người nào, khi nhập cư sinh sống trên một vùng đất nào đó, họ đều mang theo truyền thống tín ngưỡng của mình. Người Hoa cũng vậy. Nhất là trong buổi đầu định cư, họ vừa trải qua những ngày sóng gió lênh đênh trên biển nhiều gian nan, trắc trở, thì khi đến vùng đất mới được bình an vô sự, họ đều hướng về các thần linh để tạ ơn. Họ lập nên những miếu thờ dù ban đầu chỉ là những gian nhà lá đơn sơ để thờ những vị thánh mà họ cho là hiển linh đã cứu giúp họ.
Thiên Hậu Thánh Mẫu là một điển hình. Xuất xứ từ châu Mi, huyện Bồ Điền, tỉnh Phúc Kiến, cô gái họ Lâm tương truyền là người đắc đạo, hiển ứng thần thông cứu người bị nạn trên biển. Hầu hết lưu dân người Hoa ra đi bằng đường biển nên họ rất tôn thờ Bà. Không chỉ riêng người Phúc Kiến, Hoa kiều ở bất cứ nơi đâu đều lập miếu thờ Bà.
Ở khu vực Chánh Nghĩa, vào năm 1867, những người Phước Kiến đã lập ngôi miếu thờ Thiên Hậu trên bờ rạch hương chủ Hiếu, năm 1871 miếu được tôn tạo, đến năm 1880 họ xin chính quyền cất thêm nhà hội. Sau khi miếu bị cháy, năm 1923 miếu được di dời về địa điểm đối diện vòng xoay ngã sáu, bên cạnh trường tiểu học Nguyễn Du hiện nay, đó là thiên Hậu cung, nhân dân quen gọi là chùa Bà Thủ Dầu Một. Miếu dù có nguồn gốc đầu tiên là do những người Phước Kiến lập, nhưng sau đó cả bốn bang người Hoa Phước Kiến, Triều Châu, Quảng Đông và Sùng Chính đã chung sức xây dựng, tôn tạo, quản lý và tổ chức lễ hội long trọng đầy màu sắc vào ngày Rằm tháng giêng hàng năm. Lễ hội này trở thành lễ hội truyền thống thu hút hàng triệu lượt người từ khắp nơi đổ về không chỉ người Hoa mà người Việt cũng tụ hội chung vui.
Ngoài việc chung sức giữ gìn truyền thống lễ hội rằm tháng giêng của Thiên Hậu cung, người Hoa Phước Kiến ở Chánh Nghĩa còn có truyền thống thờ cúng những vị nam thần mà những nơi thờ tiêu biểu là Phước võ điện và Phước An miếu, dân quanh vùng quen gọi là chùa ông Bổn.
Phước Võ điện thờ Huyền Thiên Thượng Đế, được những người họ Vương xây dựng khoảng năm 1885, hiện tọa lạc tại khu 9, phường Chánh Nghĩa. Huyền Thiên Thượng Đế là một vị thần do Thượng Đế phân thân, còn được gọi là Chân Vũ hoặc Chân Võ. Theo truyền thuyết, ngài có hai tướng rùa và rắn (Vui - Xà tướng quân) phụ trợ cùng với 36 tướng khác tuần du về phương bắc để trấn áp, thu phục tà ma cứu người lương thiện, cuộc tuần du đó gọi là Bắc du Chân Võ. Lễ hội Phước Võ điện tổ chức vào 2 ngày 24 và 25-2 âm lịch. Cứ 4 năm mới đáo lệ một lần do có sự luân phiên tổ chức của nhóm họ Vương các nơi khác. Đó là các miếu thờ:
- Ngọc Hư cung ở khu 7, thị trấn Lái Thiêu.
- Phước Thọ đường ở xã Hưng Định, huyện Thuận An.
- Phước Nghĩa đường ở Tân Phước Khánh, huyện Tân Uyên. Huyền Thiên Thượng Đế lần lượt được thỉnh về tạm trú mỗi nơi một năm. Ngài ở nơi nào thì nơi đó tổ chức lễ hội. Chương trình lễ hội cả bốn nơi đều giống nhau. Phần chính của lễ hội là nghi thức rước kiệu Huyền Thiên Thượng đế, Nam triều Đại Đế, Phật Bà Quan Âm đi tuần du suốt đêm quanh khu vực. Đám rước có sự hộ tống của hẩu, lân, sư, rồng rộn rã, tưng bừng. Trong lễ hội có hát hò Quảng thu hút rất đông cư dân quanh vùng.
Phước An miếu hiện tọa lạc tại khu 7, phường Chánh Nghĩa do người Hoa họ Lý lập năm 1882 thờ Thất phủ Đại nhân các vị họ Lực, Chu, Quách, Tiêu, Triệu, Lý và Châu. Tương truyền vào đời nhà Hán, có 360 sĩ từ đi thi đã tụ hội lại trong một căn hầm để đàn ca hát xướng. Tiếng ồn vang đến tai của trương Thiên Sư (Trương Đạo Lăng - tổ của thầy pháp) ông nổi giận bèn lừa vua lấy chiếu chỉ rồi đọc than chú cho sụp hầm giết chết 360 người. Oan hồn các sĩ tử cứ báo mộng kêu oan với nhà vua. Khi biết rõ sự tình, vua bèn phong cho các sĩ tử bị chết oan mỗi người là Đại nhân của phủ họ. Người họ nào thì thờ đại nhân họ đó. Tìm hiểu từ những người cao tuổi thì ở quê hương An Khê của họ Lý đã có miếu thờ thất phủ đại nhân từ lâu đời. Khi sang định cư tại Chánh Nghĩa ngày nay người Hoa họ Lý cũng lập miếu thờ Thất phủ Đại nhân, trước tiên là để tạ ơn các vị thần đã phò trợ cho họ được an cư lạc nghiệp, sau đó là giải quyết nhu cầu tinh thần, an ủi những người xa xứ luôn nhớ và tiếp nối truyền thống tín ngưỡng từ cố hương.
Hàng năm vào ngày 16 tháng giêng, Phước An miếu tổ chức lễ rước kiệu ông tuần du suốt ngày suốt đêm quanh khu dân cư. Từng gia đình hoặc một nhóm gia đình bày chung hương án, bánh trái bên đường đón đám rước có thầy pháp làm lễ cúng cầu ông giải trừ tà ma, phù hộ cho gia đình làm ăn phát đạt, an khang thịnh vượng... hộ tổng đám rước cũng không thể thiếu hẩu, lân, sư, rồng với trống chiêng, chập chả âm thanh rộn ràng vang xa hàng cây số.
Ngoài lễ rước kiệu ngày 16 tháng giêng hàng năm, cứ 3 năm Phước An miếu tổ chức lễ hội một lần vào 3 ngày từ 12 đến 14-8 âm lịch. Trong lễ hội có thầy pháp tụng cúng, có hình thức lên đồng xỏ xiên quai (một thanh sắt tròn dài xỏ xiên qua 2 má cạnh mép miệng) và chủ yếu là hát cúng hò Quảng với nhiều tuồng tích. Cũng như lễ hội ở Phước Võ điện, lễ hội ở Phước An miếu thu hút rất đông người.
Ngoài 2 ngôi miếu thờ Ông kể trên, người hoa ở Chánh Nghĩa còn có miếu thờ Phật Bà Ouan Âm gọi là Bích Liên đình tọa lạc tại khu 7, phường Chánh Nghĩa, thị xã Thủ Dầu Một. Việc thờ Quan Âm tại đây không mang theo nghi thức Phật giáo. Cũng giống như Thiên Hậu Thánh Mẫu, người Hoa cho rằng Phật Bà Quan âm là vị cứu nạn, cứu nguy cho người trên biển. Ở đây bên cạnh Phật Bà còn kết hợp thờ các vị Tam Thánh (Quan Công, Quan Bình, Châu Xương), Hồng Hài Nhi, Hà Tiên Cô, Na Tra và Bảo Sanh Đại Đế. Mỗi khi Phước An miếu tổ chức rước kiệu hoặc lễ hội đều thỉnh Phật Bà với các vị thờ ở Bích Liên đình lên Phước An miếu cùng tuần du, cùng chứng giám lễ hội.
Nói đến lễ hội và tín ngưỡng của người Hoa ở Chánh Nghĩa không thể không nói đến nghi thức múa hẩu. Đó là một hình thức múa lốt đặc trưng của người Hoa Phước Kiến ở Bình Dương mà không có nơi nào có kể cả ở TP.HCM. Cái lốt con hẩu có đầu là chiếc mặc nạ tròn rất hung tợn, được vẽ nhiều màu sắc, quanh đầu râu ria xồm xoàm gắn với thân là một tấm vải màu vàng rực, rộng và dài khoảng 3 - 4m. Đuôi là đuôi thật của trâu hoặc bò phơi khô cột chặt vào phần cuối cùng của tấm vải. Múa hẩu cũng có 2 người múa đầu và múa đuôi nhưng khác hẳn với múa lân hoặc sư tử bởi vì hẩu không trèo leo, nhún nhảy theo kiểu vui chơi. Hình thức cơ bản khi múa hẩu là đầu rướn lên cao, xoay mặt qua lại, lúc thì co lượn, trườn dài, lăn tròn xuống đất. Múa hẩu biểu diễn trong lễ cúng ở Phước An miếu và các lễ vía Huyền Thiên Thượng Đế chứ không biểu diễn để vui chơi hội hè. Về sau khi kết hợp tổ chức lễ hội Thiên Hậu Thánh Mẫu, hẩu cũng tham gia rước Bà du xuân.
Theo tín ngưỡng Đạo giáo, không biết nguồn gốc từ đâu, các bang hội người Hoa ở Bình Dương đều công nhận mỗi bang có một cốt con vật riêng (trong can chi). Người Phước Kiến cốt con hổ, Triều Châu cốt con ngựa, Quảng Đông cốt con dê và Sùng Chính cốt con chó. Do đó, khi xếp đội hình rước kiệu Bà Thiên hậu du xuân thì nhất định các con hẩu luôn luôn đi đầu. Vì người Hoa cho rằng hẩu đại diện người Phước Kiến cũng tức là hổ nên cần phải đi đầu để dẹp đường cho Bà du xuân, nếu hẩu đi sau sẽ ăn hết những con vật (ngựa, dê và chó kể trên) đi trước, như vậy người Hoa các bang khác sẽ không được thuận lợi trong công việc làm ăn.
Như vậy, hẩu là một linh vật, múa hẩu là nghi thức thờ các gia đình người Hoa. Những người Hoa Phước Kiến ở Chánh Nghĩa luôn mở rộng cửa đón hẩu và nhà múa lễ trong những ngày đầu xuân.
Về phong tục tập quán, người Hoa Phước Kiến Chánh Nghĩa vẫn duy trì tục dán liễn đỏ trong các dịp Tết, cưới hỏi, tang ma... Cũng như tất cả người Hoa nói chung, người Phước Kiến rất chuộng màu đỏ, hoa cho màu đỏ là màu may mắn, hạnh phúc. Trong các lễ hội hoặc các lễ cúng khác người Phước Kiến thường nhuộm trứng vịt màu đỏ để thỉnh lộc miếu ông hoặc cúng lễ đầy tháng, thôi nôi. Khi thôi nôi hoặc đầu tháng, người Phước Kiến vẫn còn giữ phong tục làm bánh nếp (gần giống với kiểu bánh ít trần của người Việt ở Nam bộ) bột pha màu đỏ và trứng vịt cũng nhuộm đỏ đem cho các gia đình xung quanh và bà con bạn bè thân thuộc.
Nhìn chung, trong quá trình cộng cư lâu dài với người Việt, sự giao thoa văn hóa thường xuyên xảy ra, người Việt lâu dần cũng có một vài nếp nghĩ theo tập quán của người Hoa. Người Hoa cũng vậy, nhưng những biểu tượng có tính đặc trưng của mỗi tộc người luôn luôn tồn tại một cách riêng biệt không hề lẫn lộn.
Ngày nay, cộng đồng người Hoa ở Việt Nam là một trong 54 dân tộc trong đại gia đình cộng đồng dân tộc Việt Nam. Thuở ban đầu từ Trung Quốc sang làm ăn sinh sống, họ là những “Hoa kiều” dần dần đã trở thành những công dân Việt Nam. Thế hệ con cháu họ là thế hệ người Việt Nam nhưng cội nguồn văn hóa tín ngưỡng là cội nguồn văn hóa Trung Hoa mà ngày nay đã tạo thành những cành lá sum sê trong vườn văn hóa Việt Nam. Những thành tựu về mặt kinh tế, những đóng góp về mặt xã hội của người Hoa đã góp phần tạo nên sự bền vững cho Tổ quốc Việt Nam, quê hương thứ hai của họ.
Người Hoa Phước Kiến ở Chánh Nghĩa nói riêng và người Hoa ở Bình Dương nói chung đã góp phần không nhỏ trong những thành tựu về kinh tế - văn hóa- xã hội của tỉnh nhà.
L.P -ĐT
CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Các tài liệu điền dã cá nhân.- Địa chuông Bé. NXBTH Sông Bé năm 1991- Trần Hồng Liên: Văn hóa người hoa ở Nam bộ tín ngưỡng và tôn giáo. NXBKHXH.- Sở VH-TT tỉnh Bình Dương: Sơ khảo về tín ngưỡng, lễ hội dân gian và truyền thống tỉnh Bình Dương. Lưu hành nội bộ tháng 5-1998.
www.sugia.vn
|
Showing posts with label tỉnh Bình Dương. Show all posts
Showing posts with label tỉnh Bình Dương. Show all posts
Tuesday, March 13, 2012
Bước đầu tìm hiểu về cộng đồng người Hoa Phước Kiến ở phường ChánhNghĩa, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương
Thực trạng nghề thủ công truyền thống vẽ tranh trên kính, tỉnh BìnhDương
* LÊ THỊ HÒE |
Khi nói tới ngành nghề thủ công truyền thống của tỉnh Bình Dương, chúng thường nghe nhắc đến các nghề như điêu khắc gỗ, gốm sứ, sơn mài... nhưng có lẽ ít ai biết đến một nghề thủ công truyền thống vẽ tranh trên kính đã có từ lâu đời. Nghề vẽ tranh trên kính xuất hiện vào giữa thế kỷ XIX đến những năm đầu thế kỷ XX, vẽ tranh trên kính thật sự có ý nghĩa quan trọng trong nền kinh tế của tỉnh Bình Dương xưa, nhưng hiện nay đang dần dần bị lãng quên, do nghề này không còn tồn tại nữa.
Tranh kiếng (tức là tranh vẽ trên kính) là một loại hình nghệ thuật dân gian được người dân Nam bộ ưa chuộng, trước đây vào bất cứ gia đình nào cũng đều thấy một vài bộ loại tranh này. Tranh kiếng trở thành sản phẩm không thể thiếu trong nghệ thuật trang trí ngôi nhà của người dân, việc treo tranh trong nhà đã tạo ra nét văn hóa riêng của người dân Nam bộ.
Khác với các loại tranh vẽ thông thường, tranh kiếng là một loại hình đặc biệt, nguyên tắc vẽ tranh kiếng là phải vẽ từ phía sau mặt kính, khi vẽ xong mới lật tấm kính lại và bề đó mới chính là bề mặt của tranh. Do nguyên tắc là vẽ phía sau mặt kính nên chi tiết nào đáng lẽ phải vẽ sau cùng, thì với tranh kính lại phải vẽ trước tiên. Chính với đặc điểm này đã tạo nên nét độc đáo trong tranh kiếng. Vẽ tranh kiếng rất khó, đòi hỏi người nghệ nhân phải thật sự khéo tay và có óc thẩm mỹ cao.
Trong những năm đầu thế kỷ XX, ở Nam bộ có 3 vùng sản xuất tranh kiếng nổi tiếng: Lái Thiêu (Thủ Dầu Một), Chợ Lớn (Sài Gòn) và Chợ Mới (An Giang). 3 vùng này dần dần phát triển trở thành 3 trung tâm sản xuất tranh kiếng và tạo ra 3 dòng tranh kiếng khác nhau, mỗi dòng tranh kiếng có những đặc điểm riêng.
Riêng Dòng tranh kiếng ở Lái Thiêu: Lái Thiêu là một địa phương sản xuất tranh kiếng nổi tiếng từ những năm đầu thế kỷ XX, phát triển mạnh vào những năm thập niên 20, có thể nói thời kỳ này là thời kỳ hưng thịnh nhất của nghề vẽ tranh trên kính của tỉnh Thủ Dầu Một. Sau năm 1945, nghề vẽ tranh trên kính của tỉnh bị suy tàn do rất nhiều nguyên nhân, nhưng có lẽ nguyên nhân chính là do sự tàn phá khốc liệt của chiến tranh.
Sản phẩm tranh kiếng ở Nam bộ phong phú và đa dạng, nhiều loại hình, nhiều màu sắc. Tranh có nhiều đề tài khác nhau và phân theo từng loại hình treo ở những nơi nhất định:
Loại tranh thờ tổtiên thường được treo ở bàn thờ tổ tiên, thờ Phật... loại tranh này thường thể hiện các đề tài như: Các bức hoành phi, câu đối có chữ “Trần Phủ Đường” (ghi họ tên gia chủ), “Thiện Tối Lạc” (ca tụng tổtiên), xung quanh trang trí dây lá, hối văn hay là trang trí viền bằng cây trúc, cây tùng minh họa; tranh viết chữ “Phước”, “Lộc”, “Thọ” trên nền đỏ, xung quanh vẽ khung hình dây lá hoặc hồi văn, thỉnh thoảng có thêm con bướm hay con dơi ngậm trụ chỉ. Tất cả các chữ trên tranh đều được viết bằng chữ Hán.
Ngoài ra, loại tranh này còn vẽ một bụi mai già bên cạnh có cây trúc, bụi lan, cúc... Đề tài khác hấp dẫn người dân bình thường như tranh vẽ phong cảnh, vẽ núi non, bầu trời... Tranh cao cấp thì có tấm liễn vẽ một cành cây có 7 bông, xung quanh có lá, có nụ, phía trên có ghi chữ Hán, loại tranh này rất đắt tiền nên chỉ có những gia đình giàu có mới có tiên mua loại tranh này về trang trí.
Loại tranh treo cửa buồng: Kiến trúc nhà của người dân Nam bộ khác hẳn với miền Bắc và miền Trung.Trong gian nhà ngoài (phòng khách) của người Nam bộ, bàn thờ được đặt chính diện với cửa chính, phía trước bàn thờ đặt một cái tủ lớn và một bộ bàn ghế dùng để tiếp khách, hai bên bàn thờ có 2 lối đi vào nhà trong (buồng). Vì có 2 cửa buồng đi vào nhà trong, nên người ta thường treo một tấm rèm hay một tấm vải cóhoa văn đẹp để, che cửa, phía trên cửa treo tranh trang trí.Tranh cửa buồng có hình chữ nhật, kích thướcthường là 0,9m x 0,6m, mỗi bộ có 2 bức treo phía trên 2 cửa buồng. Tranh cửa buồn vẽ theo đề tài “Loan phượng hòa minh” (tượng trưng chồng vợ hòa hiệp), “Hoa mẫu đơn và chim phượng” (tượng trưng sự giàu có).
Loại tranh tứ bình: Một bộ tranh tứ bình gồm có 4 tấm, treo trên vách với mục đích trang trí. Tranh tứ bình Nam bộ phổ biến các đề tài “Mai Lan Liên Cúc” tượng trưng cho bốn mùa trong năm, “Bát tiên quá hải” (Bát tiên vượt biển), “Bát tiên kỳ thú” (Bát tiên cưỡi thú)”, “Tứ hùng” (vẽ bốn con thú mạnh nhất theo quan niệm dân gian là cọp, hổ, báo, sư tử...). Ngoài ra, còn có tranh vẽ về đề tài như: 4 bó hoa (loại hoa phương Tây), những đàn hạc lội ven sông... loại tranh này mô phỏng tranh phương Tây, xuất hiện muộn thích hợp với nhà thành phố.
Tranh thờ phật, trời, thánh, thần có khổ nhỏ, dùng để thờ phật, thánh, thần, trời... gồm có 2 loại: Tranh vẽ các vị Phật A Di Đà, Bồ Tát, Quan Âm, Quan Thánh Đế Quân, Mẹ Sanh - Mẹ Độ... và các bài vị (loại này chỉ có chữ, xung quanh trang trí hoa văn) thường được treo trong các chùa, đình, miếu...
Mặt hàng nổi tiếng nhất của Dòng tranh Lái Thiêu là tranh thờ tổ tiên và tranh cửa buồng. Tranh cửa buồng Lái Thiêu có loại vẽ nhiều màu sắc, nhưng cũng có loại chỉ vẽ một màu đen hoặc đỏ, các hoa văn đều dán ốc xà cừ. Đặc biệt, người sản xuất tranh ở Lái Thiêu còn biết tâm lý của người dân, nên họ chú ý đường nét vừa tỉ mỉ vừa cách điệu. Họ lại mạnh dạn dùng gam màu ngũ sắc Huế, gồm màu trắng, hường, đỏ, đen, xanh dương, xanh màu lông két… và tùy theo từng sản phẩm để họ dùng mực Tàu hay mực Tây, bột màu pha a dao… Họ cũng rất chú ý đến nội dung và hình thức chữ viết, có nhiều bộ tranh Lái Thiêu chữ đẹp, văn hay, phía sau cẩn ốc xà cừ rất đẹp, treo trong nhà tạo ra nét thanh tao và tôn lên vẻ sang trọng trong ngôi nhà.
So với Dòng tranh kiếng Chợ Mới (An Giang) và Dòng tranh kiếng Chợ Lớn (Sài Gòn), thì Dòng tranh kiếng Lái Thiêu đẹp hơn, tinh tế hơn. Người nghệ nhân Lái Thiêu chú đến thể loại tranh thờ tổ tiên, phù hợp với truyền thống người Việt Nam, nghệ nhân ở chợ Lớn chỉ chú trọng đến tranh Thánh, tranh bài vị và một số hoành phi, tranh dùng để chúc mừng (phù hợp với tâm lý người Hoa). Trong 3 dòng tranh kiếng ở Nam bộ, Dòng tranh Chợ Mới ra đời muộn hơn, sản phẩm không được đẹp như Dòng tranh Lái Thiêu và Chợ Lớn, nhưng sản phẩm của Dòng tranh Chợ Mới lại phong phú, đa dạng, giá thành lại rẻ hơn. Hiện nay, sản phẩm tranh kiếng của chợ Mới vẫn được bán rộng rãi trên thị trường miền tây Nam bộ.
Cách tổ chức sản xuất và tiêu thụ hàng hóa: người ta chỉ sản xuất theo kiểu gia đình chứ không tập hợp theo nhóm hay hợp tác xã, các gia đình tự làm và bán lại cho các lái buôn. Trong một xưởng vẽ tranh, thông thường có năm, bảy người, nhưng chỉ có một người phụ trách chỉ huy, phân công công việc, người này phải am tường mọi việc. Những người còn lại theo sự phân công của người thợ cả làm phần việc của mình. Tùy theo trình độ tay nghề của từng người mà thợ cả phân công công việc. Phần lớn, các thành viên trong xưởng đều là người trong gia đình, nhưng cũng có những xưởng còn thâu nạp học viên, những học viên này khi đã lành nghề có thể ở lại cùng làm việc hoặc ra mở xưởng riêng. Hàng hóa xuất xưởng đều được các lái buôn thu mua và bán lại cho người tiêu dùng. Trước kia, tranh Lái Thiêu được chuyển về miền Tây bằng con đường thủy. Thị trường tranh kiếng Lái Thiêu không những được phổ biến rộng rãi khắp miền Nam mà còn mở rộng ra các vùng lân cận như miền Trung, nước bạn Campuchia.
Tranh kiếng phổ biến rộng rãi trong các gia đình quý tộc cũng như thường dân ở nam bộ, đề tài phong phú nên các tác phẩm tranh trở thành những tác phẩm nghệ thuật, có sức hấp dẫn người dân. Do đó, tranh thường được treo trang trọng trong phòng khách, bàn thờ. Dân thôn dã Bình Dương nói riêng và dân Nam bộ nói chung rất ưa chuộng tranh kiếng. Đó chính là động lực thúc đẩy để tranh kiếng phát triển và hưng thịnh đến những năm thập niên 60 của thế kỷ XX.
Hiện nay, tranh kiếng rất ít chỉ còn tồn tại trong các đình, chùa, miếu và trong các nhà cổ do người dân còn giữ lại… Tuy nhiên, nếu được các ngành hữu quan quan tâm và khôi phục lại bằng cách: tập trung các nghệ nhân xưa lại, đào tạo các nghệ nhân mới, giúp vốn khuyến khích người dân khôi phục lại nghề cũ… chắc chắn rằng sản phẩm tranh kiếng không chỉ là bán ở khu vực Nam bộ mà còn có thể mở rộng thị trường ra cả nước và quốc tế. Nghề vẽ tranh trên kính không chỉ dừng lại ở ngành nghề thủ công truyền thống của một địa phương (Lái Thiêu) mà nó còn có thể sánh ngang hàng với các ngành nghề thủ công truyền thống khác như sơn mài, gốm sứ, điêu khắc gỗ… sẽ thúc đẩy nền kinh tế của tỉnh nhà phát triển mạnh hơn. Khai thác và phát huy triệt để các ngành nghề thủ công mà ông cha ta để lại…
L.T.H
Tài liệu tham khảo:
1 - Tài liệu thuyết minh trưng bày Bảo tàng tỉnh Bình Dương
2 - Xóm nghề & nghề thủ công truyền thống Nam bộ, NXB Trẻ
www.sugia.vn
|
Subscribe to:
Posts (Atom)
-
What Could the Future of Sales Look Like ? We Asked Top Sales Leaders Drone deliveries. Space tourism. Virtual reality birthday parties. Wh...
-
Cấu trúc của một đám mây nguồn mở Các khối xây dựng cho cơ sở hạ tầng như một dịch vụ Mục lục Cấu trúc điện toán đám mây ...