Là một huyện tập trung nhiều nhà máy trong Khu công nghiệp Sóng Thần, Dĩ An là nơi có tốc độ công nghiệp hóa, đô thị hóa mạnh. Nhưng trước khi là một huyện có công nghiệp phát triển mạnh thì đây là một vùng đất có bề dày lịch sử, giàu văn hóa và có nhiều nghề thủ công truyền thống. Với điều kiện tự nhiên nhiều tre, nứa, tầm vông, lại có điều kiện thuận lợi về thông thương khi nối liền Bình Dương và TP.HCM nên ở đây rất phát triển những nghề như chẻ tăm nhang, đương thúng, đương nia, làm đòn gánh... Có những địa danh gắn liền với từng nghề như xóm nhang, xóm đương. Và nổi tiếng nhất, hiện vẫn còn tồn tại, vẫn đóng góp giá trị kinh tế cho những hộ gia đình làm nó cũng như huyện Dĩ An - tuy không nhiều, đó là nghề chẻ tăm nhang mà cùng với sự phát triển của tỉnh nhà, nghề đang phát triển theo một hướng mới.Nghề chẻ tăm nhang tới vùng đất này định cư cũng đã khá lâu đời, với những người có tuổi đời 80 thì được 2 đời và những người ở tuổi 50 thì đã được 3 đời. Tới đây không tính tiếp vì lớp trẻ hiện nay khi được hỏi chẳng có ai muốn nối nghiệp cha ông. Tính như vậy có lẽ nghề này tồn tại đã được hơn 100 năm. Tuổi không dài cũng không ngắn cho một vùng đất truyền thống.
Nghề chẻ tăm nhang phát triển mạnh nhất là những năm 70 - 85 của thế kỷ trước. Khi đó đã thành lập được HTX chẻ tăm nhang. Mỗi hộ gia đình, mỗi cá nhân góp vốn để thành lập HTX, người góp ít, người góp nhiều gọi là cổ phần rồi dựa vào cổ phần góp đó để ăn chia lợi nhuận. Tre nhận về HTX rồi chia ra cho mỗi người. Mỗi người nhận 3 niền, chẻ xong lại gom lại cho HTX. Loại tăm/chân nhang thời đó là tăm/chân nhang dùng để xuất khẩu, lớn khoảng 1cm và phải có chất lượng, tăm/chân nhang phải đều, đẹp mới được tính công và nhập kho. Thời gian đầu HTX hoạt động rất trơn tru, hiệu quả, mang lại thu nhập ổn định cho người lao động và càng phát triển nghề mạnh thêm. Cũng vì thời gian này đang trong thời kỳ chiến tranh, cả nước đang dồn nhân lực, vật lực ra chiến trường nên làm nhang hầu như là độc quyền của vùng Dĩ An này, không có nơi nào cạnh tranh. Thời gian này nhà nhà chẻ tăm nhang, người người chẻ tăm nhang. Đi đâu cũng thấy tre được buộc từng lọn chất đầy góc sân, góc nhà, tăm nhang được trải ra phơi đầy sân, đầy vệ đường xóm, đường lộ. Và không chỉ riêng thị trấn mà dường như toàn huyện Dĩ An đều phát triển nghề này, rồi những xã khác như ... thuộc Thuận An cũng học theo để làm. Nhưng được một thời gian sau, có những phần tử xấu, cơ hội, lợi dụng để ăn chia của chung. Vì mâu thuẫn nội bộ và vì làm ăn không có lời nên năm 1985, HTX tăm nhang giải thể, từng hộ gia đình tự sắm vật tư, ra làm ăn riêng rẽ, đường tre được chuyển giao cho HTX đũa mùng 3-2 ở Lái Thiêu, Thuận An.
Cũng bắt đầu từ năm này có những người từ miền Tây lên, học hỏi kỹ thuật se nhang ở Chợ Lớn, tới vùng tăm nhang này để se rồi bán nhang thành phẩm. Nhưng dường như ở đây chỉ có thể chẻ tăm nhang chứ không thể làm nhang (vì sao) nên cơ sở làm ăn cũng không phát triển lắm và cho tới tận bây giờ số hộ làm nhang ở Dĩ An chỉ có thể tính trên đầu ngón tay chứ không nhiều. Từ năm 1985 nghề chẻ nhang cũng bắt đầu đi xuống (do đâu?).
Hiện nay nghề chẻ tăm nhang chỉ còn tập trung ở 2 khu phố: KP. Bình Minh 2 có khoảng gần 50 hộ, KP. Nhị Đồng 2 có khoảng ... hộ. Tính là hộ nhưng không phải cả gia đình làm mà chỉ có 1, 2 người là người già, phụ nữ yếu, đang có bầu, nuôi con nhỏ hoặc trẻ con mười mấy tuổi chưa làm được việc nặng làm mà thôi. Công việc yêu cầu tính tỉ mỉ, cần mẫn, có thời gian làm suốt ngày, suốt năm chứ không theo mùa. Nhưng công lao động không cao, người nào chẻ giỏi một buổi sáng cũng chỉ được 1 lọn, cả ngày được 1 niền. Một niền được trả khoảng 55.000 đồng, tính ra không được bao nhiêu nên chỉ có người già và trẻ con làm, thanh niên họ rủ nhau đi làm công nhân thu nhập cao hơn nhiều. Có như vậy mới đủ sống được. Những gia đình làm cơ sở thu mua cũng vậy, chỉ có người trung tuổi làm, con cái họ cũng lo học hành mà làm nghề khác chứ không ai có ý định kế nghiệp nghề của cha mẹ.
Quy trình làm tăm/chân nhang
1. Nguyên liệu
Nguyên liệu để chẻ tăm nhang là tre lồ ô hoặc nứa nhưng nứa ít được dùng do khi đốt tàn sẽ bị rơi xuống, còn lồ ô thì không. Và nứa không được ưa chuộng do chỉ thích hợp làm nhang sào (loại nhang cao hơn 50cm) do thân nứa dài và mỏng. Với độ mỏng của nứa như vậy sẽ khó chẻ ra được chân nhang nhuyễn/nhang thường. Tre lồ ô được lái tre lấy từ rừng Bù Đốp, Phước Long ở tỉnh Bình Phước hoặc ở Nam Cát Tiên, Lâm Đồng đem về đây bán lại cho người chẻ nhang. Những người chẻ nhang thường không tự đi lấy bởi mỗi lần lấy tre là người ta đưa cả mấy trăm... chứ không đưa lẻ, mỗi cơ sở chẻ nhang không đủ vốn và cũng không cần nhiều đến như vậy nên chịu lấy lại từ lái buôn với giá cao hơn. So với tre ở Nam Cát Tiên, tre Lâm Đồng thì tre Bù Đốp, Bình Long già hơn nên được ưa chuộng, được lấy nhiều hơn.
Tre lồ ô này là loại tre rừng thường được lái tre khai thác vào tháng 3, 4 là những tháng cuối mùa khô. Tre khai thác xong được dọn sạch để chờ mùa mưa, khi mưa xuống măng tre mọc lên và chờ người tới khai thác vào tháng 3, 4 năm sau. Mỗi một cây tre dài từ 15 - 20m nhưng chỉ lấy được khoảng một nửa vì chỉ lấy phần tre già ở gốc. Đặc điểm của cây tre lồ ô là ở dưới gốc lại sắt nên ống bao giờ cũng nhỏ hơn ống ở thân. Không như những loại tre ta thường thấy ở vùng đồng bằng, mỗi một đốt của tre lồ ô rất dài, thường hơn 1m, rất phù hợp để làm thành nhiều loại tăm nhang dài ngắn khác nhau.
Người chẻ nhang ưa loại tre lồ ô già hơn loại non bởi tre già thì để được bao lâu cũng được, còn loại tre non chỉ để được vài tháng, nhất là khi gặp mùa mưa thì sẽ bị mọt hết, không dùng được nữa, rất thiệt hại. Để phân biệt tre già hay tre non người ta nhìn vào mặt cắt thẳng của thân tre, cây nào nhìn thấy phía trong đỏ lên, từng hột từng hột to, rõ ràng, cứng cáp thì đó là tre già, ngược lại thấy hột nhỏ, khít lấy nhau thành một màu trắng yếu, nhuyễn thì đó là tre non. Nhưng hiện nay gặp được tre già 3, 4 mùa thật khó bởi như trước đây người khai thác quan tâm đến sự tái sinh của tre, khai thác từng vùng một, hết vùng này sẽ khai thác vùng khác, như người dân tộc làm nương vậy, rồi mấy mùa sau mới quay lại nơi mình khai thác ban đầu. Làm như vậy vừa bảo đảm nguồn nguyên liệu, vừa bảo đảm sinh thái lại có những lứa tre già, chất lượng. Nhưng hiện nay, cùng với máy móc cơ giới, cùng với nhu cầu tăng lên, cùng với lòng tham lấn át sự hiểu biết mà người ta khai thác một cách tràn lan, không kịp để cho rừng kịp tái sinh gây ra nhiều hậu quả cho con người và cho người làm tăm nhang, tre để không được bao lâu đã bị mọt ăn hết.
2. Công đoạn “tề”
“Tề” là từ chuyên dụng trong ngành chẻ nhang để chỉ công đoạn cưa tre sao cho bằng. Tre lồ ô sau khi được hạ sẽ được cắt bỏ mắt, chỉ lấy phần ống suôn, chẻ ra làm tư, bó lại thành từng niền. Mỗi niền có đường kính từ 45 - 46cm rồi để cả ống dài mà giao cho người chẻ nhang. Thân lồ ô có vỏ ngoài màu xanh, phần ruột bên trong - gọi là cật tre có màu đỏ hoặc trắng tùy tre già hoặc tre non. Niền tre lấy về sẽ được cưa ra thành từng loại theo từng kích cỡ nhang muốn làm. Nhang thì có rất nhiều cỡ nên cũng cưa ra nhiều loại khác nhau như: 2 tấc rưỡi, 3 tấc, 3 tấc 3, 3 tấc 6, 3 tấc 8, 4 tấc, 5 tấc, 6 tấc, 7 tấc, 7 tấc 2, 8 tấc, 1m2, nhưng người trong nghề không ai gọi rườm rà như vậy mà chỉ nói đơn giản: 25, 3, 33, 36, 4, 5, 6, 7, 72, 80, 1m2. Người kinh nghiệm sẽ không bao giờ cắt khít mà luôn chừa 1 hoặc 2 phân để chỉnh sửa khi làm, như vậy nếu làm nhang 3 tấc thì sẽ cắt thanh tre dài 32cm. Nhưng tre lồ ô chỉ để làm loại nhang dưới 80cm, còn với loại nhang lớn hơn thì người ta hoặc dùng chân bằng sắt, hoặc dùng chân bằng thân trúc.
Để cưa tre một lúc nhiều thanh mà chuẩn, người ta đóng một cái ghế, cuối ghế đóng một thanh gỗ chặn lại để giữ tre cho bằng một đầu, đặt tre lên đó, lấy một thanh tre làm chuẩn đặt bên cạnh rồi cứ thế mà cưa. Tre cưa xong được buộc lại thành từng lọn, cứ 2 lọn. Hiện nay, nhiều gia đình đã sắm được máy “tề” với tốc độ cưa nhanh hơn, có độ chính xác cao hơn cưa thủ công. Nhưng nhìn chung người thợ chẻ tăm/chân nhang ở đây chủ yếu vẫn tề thủ công bởi đây là công việc thủ công, làm lúc rỗi rãi, khi rảnh việc của một bộ phận những phụ nữ, người già vừa làm việc nhà, vừa làm để có thêm thu nhập. Máy “tề” xuất hiện ở những cơ sở sản xuất - kinh doanh nhỏ và vừa.
3. Công đoạn: chẻ tăm nhang
Chân nhang cũng có nhiều loại: 1 li 2 (1,2mm), 1 li 8 (1,8mm), 3 li (3mm), 5mm và nhiều loại lớn hơn. Loại được tiêu thụ nhiều nhất là 1 li 2 nên nhiều cơ sở làm loại này. Nhang dài trên 5 tấc gọi là nhang sào và gọi là sào 5, sào 6, sào 7... dài dưới 5 tấc gọi là nhang nhuyễn, nhang thường. Đây cũng là chiều dài được nhiều người dùng do phù hợp với gia đình.
Nhận tre về, người thợ phải coi xem đó là tre tươi hay tre khô. Tre tươi thì có thể chẻ ngay được, còn nếu là tre khô phải đổ nước vào phuy, thả tre vào trong đó ngâm tới khi nào tươi lại, cho dẻo tre thì mới có thể chẻ được. Tre cũng có nhiều loại, chất lượng tốt, xấu khác nhau. Tre “ngon” là tre già, tươi, dóc tre, khi chẻ thấy nhanh và nhẹ, ngược lại tre non, bị sâu, không được thẳng, khi chẻ phải lựa chiều, lựa kiểu sao cho không bị hao tre thì đó là tre xấu, không chất lượng. Cũng không phải do chất lượng tốt xấu khác nhau mà giá thành khác nhau bởi lái tre thường bó chung, bó lộn tre tốt, tre xấu chung một niền nên ai cũng phải chịu vậy.
Tăm/chân nhang được chẻ bằng rựa. Đây là một loại dao có sống dao dày như rựa bình thường nhưng lưỡi dao rất mỏng và sắc, chỉ chuyên dùng để chẻ tăm/chân nhang vì nếu để dùng chặt vật khác, lưỡi dao sẽ bị mẻ ngay. Chuôi dao được gắn cán gỗ dài, chắc tay để cân bằng trọng lượng với thân dao để khi chẻ lên, xuống cho đều tay. Lưỡi dao khá dài nên người ta để bàn tay tận vào trong lưỡi dao. Dĩ nhiên lưỡi dao chỗ đó phải cùn/lụt để không bị đứt tay và người ta còn buộc vải vào thân dao để cầm cho chắc tay, không bị tuột.
Có ngồi quan sát người thợ chẻ nhang ta mới thấy khâm phục sự điêu luyện của người làm nghề. Người chẻ nhang ngồi bệt xuống sàn nhà hay ngồi lên một tấm gối cho khỏi mỏi người, một chân đặt lên thanh tre mà một đầu gác lên tấm gỗ kê chẻ tăm/chân nhang cho khỏi mỏi chân, một chân đặt sát xuống sàn nhà, bỏ cán dao lên trên, tay trái cầm thanh tre, tay phải cầm rựa chẻ thẻ hoặc chẻ tăm/chân nhang nhanh thoăn thoắt. Chẻ tăm/chân nhang là công việc vừa đòi hỏi sức lực, vừa đòi hỏi sự khéo léo thế nhưng khi nhìn những động tác thoăn thoắt của người chẻ nhiều kinh nghiệm, chúng ta dễ lầm tưởng đây là công việc nhàn nhã, nhẹ nhàng bởi với những người chẻ lâu năm trong nghề, bàn tay như có mắt, cảm nhận, lựa chọn, phân biệt độ dày, mỏng cho phù hợp rất nhanh chóng và chính xác. Chỉ cần nhìn qua thanh tre là họ biết phải chẻ làm ba hay làm tư để phù hợp với li, tấc của loại tăm/chân nhang đang chẻ. Là công việc thủ công, trước đây hay bây giờ cũng vậy thường tập trung rất nhiều người vừa nói chuyện vui, vừa chẻ, thế mà chẳng mấy ai chẻ nhầm hay bị đứt tay, đứt chân.
Trước khi chẻ tăm/chân nhang, người ta phải chẻ thẻ nhang. Với loại nhang nhuyễn, thường một thanh tre được chẻ ra thành bốn, mỗi một thanh nhỏ như vậy được chẻ ra làm 4 hoặc 5 tùy theo độ dày cơm hay mỏng cơm của thanh tre. Mỗi một thanh như vậy gọi là một thẻ. Khi được khoảng 20 thẻ người ta sẽ bó lại thành một bó. Người chẻ thẻ chỉ lấy phần cơm ở giữa, phần nang/vỏ màu xanh bên ngoài và phần ruột bên trong chẻ bỏ bởi những thẻ đó nếu lấy thì khi se nhang những cây nhang đó sẽ bị cong, không được thẳng, đẹp. Đó là kỹ thuật của riêng vùng Dĩ An chứ ở những vùng làm nhang khác như Hà Tây người ta vẫn lấy lớp vỏ, chỉ cạo bỏ màu xanh đi mà thôi.
Từ thẻ nhang sẽ chẻ thành tăm/chân nhang. Với một bó thẻ, người thợ chia làm 2 hoặc nhiều hoặc ít hơn, quan trọng là vừa tay người cầm, giộng cho bằng đầu rồi dùng rựa để chẻ.
Với những em gia đình chuyên chẻ tăm/chân nhang, khi mới từ 8, 9 tuổi đã có thể cầm dao nhẹ học chẻ thẻ, chẻ tăm/chân nhang được rồi. Và tới tuổi 13,14 đã có thể dùng rựa chẻ nhanh như người lớn. Công đoạn chẻ nhang yêu cầu người chẻ phải có tính cẩn thận, tỉ mỉ... một buổi một người chẻ giỏi cũng chỉ chẻ được 1 lọn, 1 ngày chẻ được 1 niền có giá khoảng 55.000 đồng. Tăm/chân nhang chẻ xong được bó thành bó, thường có trọng lượng 3kg, chất lại để đem phơi.
Chẻ thủ công thì chỉ làm được với loại nhang nhuyễn/nhang thường có tăm/chân nhang vuông và nhỏ. Còn với những loại tăm/chân nhang tròn, có kích cỡ lớn hơn thì phải dùng đến máy chẻ. Máy chẻ nhang cũng nhỏ và gọn, chạy bằng điện, một đầu có khe nhỏ để bỏ thẻ vào và một đầu ra tăm/chân nhang. Ưu điểm của máy chẻ là có tốc độ nhanh, ra được những tăm/chân nhang đều, đẹp, tròn, nhẵn nhụi. Máy chẻ dùng để chẻ loại nhang sào tròn bởi chỉ có máy mới ra được những chân/tăm nhang lớn, đều, tròn như vậy. Nhưng mỗi lần cũng chỉ đưa vào được 1 thẻ nhang, nếu so với một người chẻ nhanh, chẻ giỏi thì tốc độ cũng không hơn bao nhiêu. Chẻ bằng máy phải lựa những thẻ tre đẹp, không có chỗ sâu, tre phải dẻo, phải dóc nếu không sẽ rất hao tre bởi không như người thợ chẻ họ biết lượn, biết lách những chỗ sâu, chỗ mọt hay lựa cỡ cho phù hợp, máy chỉ có một cỡ cho một lần chỉnh nên khi thẻ tre nào nhỏ hơn sẽ được ít tăm/chân nhang hơn những thẻ khác. Một máy chẻ có giá không rẻ, khoảng 60 triệu đồng một máy, quá lớn cho những người làm thủ công nên trước khi sắm máy họ cũng phải rất đắn đo, cân nhắc. Và quan trọng nhất vì chẻ tăm/chân nhang là công việc mang tính thời vụ, làm những lúc rảnh rỗi của những người không chuyên, lấy công làm lãi nên họ vẫn ưa chuộng chẻ thủ công. Chỉ những gia đình sống bằng nghề chẻ tăm/chân nhang hoặc những cơ sở làm nhang mới sử dụng máy.
4. Công đoạn: phơi
Phơi là không chỉ phơi tăm/chân nhang mà còn phơi cả thanh tre hoặc thẻ tre. Nếu chẻ nhang bằng máy thì phải phơi khi còn là thanh tre, còn nếu chẻ thủ công thì phơi khi đã thành tăm/chân nhang. Bởi chẻ bằng máy, nhất là với loại nhang sào tròn phải phơi khô thanh tre thì lúc chẻ máy mới bào cho tròn, cho nhẵn được.
Chân nhang phải phơi hoặc sấy cho ráo, cho khô để không bị mọt. Vào ngày nắng ráo thì chỉ cần phơi từ sáng sớm tới 12 giờ trưa là được. Phơi tăm/chân nhang cũng không khó, không kén như phơi những loại sản phẩm khác. Tăm/chân nhang hoặc thanh tre có thể để trực tiếp trên nền đất, nền xi măng, nền đường nhựa, tăm/chân nhang chỉ cần rải cho đều, đừng dày quá để lâu khô và cũng đừng thưa quá là cứ để vậy cho tới lúc thu về. Không cần phải đảo như phơi lúa, cũng không cần phải dùng sào như phơi bánh tráng, phơi vải. Người kỹ cũng đóng sào để phơi. Sào là vật gồm hai thanh dài, ở giữa có lót tấm nylon rồi đặt tăm/chân nhang trên đó. Thường những người phơi sào là để phơi ở những nơi không có mặt bằng và để chạy mưa cho mau. Mấy năm về trước, nếu bạn đi dọc con đường nối từ Dĩ An xuống Thủ Đức, ven theo đường ray sẽ thấy ở vùng đó (thuộc địa bàn khu phố Nhị Đồng 2) tăm tre được rải phơi rất nhiều hai bên vệ đường hoặc phơi trên sào rồi người ra đặt ngay trên đường ray xe lửa. Khoảng 4 năm trở lại đây, nghề nhang ngày càng đi xuống, số người làm cũng giảm nên cảnh phơi tăm/chân nhang ta chỉ có thể bắt gặp khi đi sâu vào bên trong những xóm nhang.
Nếu đang phơi, lỡ gặp mưa thì cũng không cần phải gấp gáp chạy mưa. Nếu phơi đã gần khô thì người ta sẽ cố gắng thu gom vào còn nếu trời mưa sớm quá, khi tăm nhang mới đem phơi thì người ta cũng để luôn như vậy, đợi mai nắng phơi tiếp.
Vào mùa mưa, trời mưa nhiều ngày không thể phơi nắng được hoặc để thuận tiện cho công đoạn chà sau này, người ta dùng phương pháp sấy bằng lửa. Lò sấy có phương pháp giống như phương pháp nấu của bếp Hoàng Cầm. Nghĩa là đắp một đường ống đưa lửa dài để lửa cháy bên ngoài nhưng hơi nóng của nó theo đường rãnh được thổi vào bên trong, bốc lên trên, phía trên đó đặt hai thanh sào, tăm/chân nhang được đặt lên đó nhờ sức nóng bốc lên mà khô. Không những khô thân tăm/chân nhang mà nhờ vậy những cái tơ, cái xước trở nên rất giòn, sẽ dễ dàng bị chà bỏ ở công đoạn chà sau này. Mỗi lần sấy cũng được mười mấy kg. Nhưng sau này vì có máy chà vừa nhanh, vừa sạch, vừa đỡ vất vả hơn nên người ta cũng không sấy bằng lửa nữa.
5. Công đoạn: chà
Trước đây khi chưa có máy thì người ta phải chà thủ công. Tăm/chân nhang chẻ, phơi hoặc sấy xong sẽ được bó lại thành từng bó, người ta cứ để nguyên bó như thế rồi dùng hai chân đạp lên để chà. Chà chừng nửa tiếng là hết những sần sùi, những cọng xước có thể làm đứt tay người chẻ nhang, người làm nhang. Nhưng chà thủ công như vậy rất mất công và hiệu quả thấp. Mỗi lần chà xong phải giũ cho sạch, mỗi lần giũ chỉ được vừa tay ôm và rất bụi bặm. Người giũ phải giũ ra cho hết những tinh, những bụi đã bị chà ra khỏi cọng tăm/chân nhang, vừa giũ vừa phải rút, vừa xấp lại sao cho bằng. Bây giờ đã có máy chà nhưng không phải mỗi gia đình có riêng một máy mà thường chỉ một số hộ có và những hộ chẻ nhang khác tới thuê chà. Máy chà làm hiệu quả hơn rất nhiều, mỗi mẻ chà được gần 200kg, trong vòng 4 giờ. Người làm vừa không mất công, vừa không phải chịu bụi bặm, cây tăm/chân nhang cũng sạch sẽ hơn và nhất là không cần phải sấy qua lửa, một công đoạn rất vất vả, tốn nhiều công sức, thời gian.
Tăm/chân nhang chà xong sẽ được bó lại thành từng bó. Trước đây mỗi một độ dài thường bó theo một kg nhất định. Ví dụ với loại nhang nhuyễn/nhang thường, mỗi bó có trọng lượng khoảng 5kg, với loại nhang sào thường bó 3kg/1 bó. Nghe thì đơn giản nhưng để bó được bó nhang cũng là một nghệ thuật, không phải ai cũng bó được. Vì vậy trước đây cũng có người chuyên làm nghề bó tăm/chân nhang thuê. Vì mỗi lần bó phải giộng, phải rút nhang cho bằng nên phải là người có sức khỏe và sự khéo léo mới ôm được một bó nhang từ 3 - 5kg. Người thợ dùng lạt trúc - là loại lạt mỏng, rất dẻo và bền, bó 3 nuột chặt như người ta bó đai trống. Bó sao cho bó tăm/chân nhang không còn bụi, bằng đầu, chắc chắn để dù có chuyển lên chuyển xuống xe cũng không bị tuột ra. Bây giờ vì có máy chà và người làm thủ công cũng chủ yếu là chẻ, xong sẽ mang tới có máy chà cũng là nơi thu mua luôn và họ có thợ bó riêng của họ. Công thợ chẻ tăm/chân nhang được tính theo kg nên càng ngày càng ít người biết bó tăm/chân nhang. Một bó tăm/chân nhang hiện nay có trọng lượng khoảng 3kg, với tất cả các loại.
So với những năm sau giải phóng, nghề chẻ tăm/chân nhang đã thoái trào mạnh. Những gia đình làm ăn nhỏ lẻ phải chuyển sang nghề khác, chỉ còn những người lớn tuổi, những phụ nữ làm việc nhà mới tiếp tục chẻ tăm/chân nhang nhưng dưới hình thức lãnh tre về chẻ thuê cho những hộ làm ăn lớn. Những người muốn tồn tại với nghề phải mở rộng quy mô sản xuất và thu gom từ những người chẻ thuê khác hoặc chuyển sang một hướng đi mới đó là làm ra nhang thành phẩm như cơ sở nhang Tân Thành của anh Phạm Văn Tân ở khu phố Nhị Đồng 2, thị trấn Dĩ An. Đây cũng là một hướng đi nhiều triển vọng để duy trì và phát triển một nghề có giá trị văn hóa, lịch sử, kinh tế ở Dĩ An.
Tư liệu điền dã cá nhân
(*) Cán bộ Bảo tàng Bình Dương
http://www.sugia.vn |