Hạ Trúc
Múa bóng rỗi là loại hình nghệ thuật biểu diễn dân gian khá đặc sắc của người dân Nam bộ nói chung, người dân Bình Dương nói riêng. Qua tổng điều tra văn hóa phi vật thể tỉnh Bình Dương, chúng tôi nắm được hơn 150 miếu có tổ chức hát, múa bóng rỗi hàng năm hoặc 3,6 năm tổ chức một lần hoặc ít nhất nếu không định kỳ thì cũng tổ chức được 1 lần trong lần khai trương miếu. Mặc dù số lượng miếu cũng như người thực hành loại hình nghệ thuật này ở địa phương khá đông đảo nhưng chúng ta lại chưa có một nghiên cứu khoa học nào nhìn nhận, phân tích một cách đúng đắn bản chất của Hát, múa bóng rỗi. Trong một thời gian khá dài, múa bóng rỗi bị cấm đoán, bị gán vào mê tín dị đoan, ở miếu đình cấm không được diễn, những người thực hành bị tịch thu đồ nghề nhưng bóng rỗi vẫn âm thầm, lặng lẽ tồn tại, phát triển cho đến ngày nay. Vậy có thực hát bóng rỗi là mê tín dị đoan? là một hình thức như lên đồng ở Bắc bộ? Qua những khảo sát, nghiên cứu bước đầu và nhất là qua quan sát thực tế một buổi múa bóng rỗi được tổ chức ở miếu bà Bình Nhâm nhân ngày cúng miếu 24.5(al) vừa qua, chúng tôi xin đưa ra cách nhìn về hát bóng rỗi hiện nay qua so sánh với hình thức Lên đồng.
1. Về đối tượng phục vụ:
- Hát, múa bóng rỗi: là nghi thức phục vụ Nữ thần. Nữ thần ở Bình Dương có vai trò đặc biệt quan trọng, hầu như mỗi ấp, mỗi làng đều có một miếu thờ Ngũ hành nương nương hay Bà Chúa xứ. Nhưng ở đây, từ thủa khai hoang mở cõi đến nay, miếu đơn giản vẫn chỉ là miếu, vai trò, vị trí của các bà thờ ở miếu cũng không được nâng lên, không đưa vào đền, phủ để thần bí hoá, hệ thống hoá; cũng không có sự phân biệt “đẳng cấp” giữa các nữ thần mà tất cả đều có chung một vai trò: bảo vệ xóm ấp, độ mạng nữ giới. Tính cách phóng khoáng, không cầu kỳ của người dân Nam bộ ở đây được thể hiện qua sự không chuyên biệt hoá vai trò của từng Nữ thần như trong hệ thống Mẫu thần ở Bắc bộ: Mẫu Đệ nhất – Mẫu thượng thiên cai quản vùng trời; Mẫu Thượng ngàn cai quản rừng núi; Mẫu Thoải cai quản sông nước… Ở Bình Dương, đó là Bà Chúa xứ - Bà chúa cai quản xứ sở nơi mình sinh sống; Bà Ngũ hành – cai quản năm loại vật chất cấu tạo nên sự sống…
- Lên đồng: là nghi lễ quan trọng của thờ Mẫu Tam, tứ phủ. Đạo mẫu Tam, tứ phủ so với tín ngưỡng thờ Nữ thần đã có bước phát triển đáng kể về tính hệ thống của nó. “Từ một tín ngưỡng vốn tản mạn, rời rạc, nay bước đầu đã có sự tương đối thống nhất về mấy chục vị thần và về hệ thống các thần, các hàng thờ”. Ở tam phủ, tứ phủ, “một tín ngưỡng dân gian đã bước đầu hình thành một hệ thống thờ cúng trong các đền phủ, những nghi lễ đã được chuẩn hoá ”[2]. Mẫu Tam, tứ phủ đều là Nữ thần nhưng không phải tất cả Nữ thần đều là Mẫu tam, tứ phủ.
Như vậy có thể thấy rằng, cả hát, múa bóng rỗi và lên đồng đều là những nghi thức quan trọng trong tín ngưỡng thờ Nữ thần nhưng lại ở hai hệ thống khác nhau. Múa, hát bóng rỗi dành cho Nữ thần và lên đồng là nghi thức của hệ thống Tam, tứ phủ. Không ai biết lên đồng cũng như hát bóng rỗi ra đời vào thời gian nào nhưng có thể chắc chắn một điều bóng rỗi ra đời muộn hơn lên đồng. Thay vì chuyên hoá lên, phức tạp lên, đi sâu hơn vào hệ thống thần linh của mẫu tam, tứ phủ, hát bóng rỗi lại rũ bỏ bớt đi những khuôn mẫu, nghi lễ rườm rà, tích hợp thêm nhiều yếu tố mới để trở thành một loại hình hoàn toàn mới. Điều này cũng đúng với nhiều loại hình nghệ thuật khác như đờn ca tài tử cũng từ cái nôi nhạc cung đình Huế nhưng giờ đây đã trở thành loại hình văn nghệ đặc trưng của những con người bình dị miền Nam bộ.
2. Về bản chất
- Lên đồng: Múa trong lên đồng là múa của thần linh, là biểu tượng sự tái hiện của thần linh trong thân xác ông đồng, bà đồng qua hình thức “nhập hồn” và “thoát hồn”. Mỗi một thánh, thần là một biểu hiện khác nhau từ trang phục đến tính cách đến năng lực. Ông đồng, bà đồng như những diễn viên đóng nhiều vai mà mỗi một vị thần, một vị thánh nhập vào là một vai khác. Mỗi một lần nhập hồn, ông bà đồng phải thể hiện cho được phong cách của mỗi người như vẻ uy nghi, hùng dũng, quý phái, nhân từ của các ông Quan Lớn; vẻ phong nhã, vui tươi của các Ông Hoàng; vẻ xinh đẹp, nhí nhảnh của các Cô và vẻ nghịch ngợm, phóng túng, quần áo kỳ cục, lời nói ngọng nghịu của trẻ con khi ở vai các Cậu. Từ những con nhang đệ tử đến ông đồng, bà đồng đều “tự kỷ ám thị” và cố gắng thể hiện ra rằng đó là tư thế, là nét mặt, cách hành xử, là tính cách của thần mà họ mời gọi do vậy mọi lời phán truyền, những vật mà ông đồng, bà đồng đưa ra đều là “lộc” của các ngài. Ở lên đồng, những ông đồng, bà đồng chỉ là cái cốt, là cái ghế, là thân xác mà thần linh mượn tạm để thể hiện uy lực của mình.
- Hát, múa bóng rỗi: hát, múa bóng rỗi hiện nay, trái ngược hoàn toàn với múa trong lên đồng. Đó là điệu múa của con người để dâng lễ trước thần linh. Lời rỗi gọi mời mềm mại, mượt mà cùng những động tác múa điêu luyện là kết quả của quá trình tập luyện không ngừng của những người hát bóng. Như cô Tám Hạnh (bà bóng chính của đoàn hát bóng miếu Bình Nhâm) đã tập từ khi mới 13 tuổi và đến năm 17 tuổi mới được biểu diễn những tiết mục đơn giản và để biểu diễn thành công những tiết mục khó hơn đòi hỏi phải khổ luyện nhiều hơn nữa. Vì vậy, không phải chỉ trong không gian lễ hội, không gian thần thánh người hát, múa bóng mới có thể biểu diễn được mà ngay trong đời thường bản thân họ đã là những nghệ sĩ biểu diễn. Và ngay bản thân những người thực hành hát, múa bóng họ cũng tự khẳng định không phải chỉ ở miếu họ mới múa dao, múa lu được mà ở bất cứ đâu họ cũng múa được. Nhưng khác ở chỗ đó là với những người thường tự bản thân họ, muốn dâng lễ vật lên Bà, muốn cầu xin và muốn được nhận lộc từ Bà nhưng họ không biết làm thế nào và họ mượn những ông, bà bóng để làm hộ công việc đó. Bằng lời rỗi khi ngọt ngào, khi ai oán, nỉ non, bằng những động tác múa đẹp mắt, những người hát, múa bóng rỗi tạo một cảm giác an tâm cho những người trông cậy vào mình để gửi lễ vật hay lời cầu xin lên Bà. Nhận chút lộc ở miếu là nhận lộc từ Bà bởi khi người hát bóng mời bà về thì Bà đã hiện diện ở miếu, ở trong tâm linh mọi người chứ không phải thông qua thân xác của ông, bà bóng. Đó là điểm khác nhau lớn nhất của hát bóng rỗi và lên đồng.
3. Về hình thức biểu diễn
- Lên đồng: lên đồng là một hình thức shaman giáo qua đặc điểm nhập – thoát hồn của ông, bà đồng. Để có được sự “tự kỷ ám thị” mình, đưa ông, bà đồng vào trạng thái ngây ngất để thoát hồn vào thế giới siêu nhiên hay hồn thần linh có thể nhập vào xác ông, bà đồng, họ cần tới những công cụ. Đó là thanh âm như âm nhạc, tiếng trống chiêng, lời hát, lời đọc thần chú… Đó là các đạo cụ như kiếm, gậy thần, mặt nạ, trang phục, gương. Bên cạnh đó, hình dáng, màu sắc, trang trí hoa văn trên trang phục ông, bà đồng cũng có tác dụng tạo nên trạng thái nhập và thoát hồn. Để hỗ trợ trong quá trình nhập hay thoát hồn, các ông đồng, bà đồng hay dùng thuốc hút hay các loại khí hun làm từ rễ cây, rượu… gây trạng thái chìm đắm trong quá trình họ lên đồng. Ngoài ra còn có các dụng cụ khác như gương soi, bùa chú bằng ngôn ngữ, chữ viết, hình vẽ hay tự giày vò thân xác mình (nhịn ăn, nhốt mình trong phòng kín) cũng là những cách để ông đồng, bà đồng đưa mình vào trạng thái mê cùng, hồn phách xã rời thể xác để đi vào thế giới siêu thực.
- Hát, múa bóng rỗi: gồm ba phần gồm hát rỗi mời bà về; múa bông và biểu diễn tạp kỹ và ở cả ba phần đều toát lên ý nghĩa: mời bà về chứ không phải mời bà nhập vào. Ở phần hát rỗi, người hát rỗi mặc lễ phục đứng trước bàn thờ Bà, tay cầm trống nhỏ gọi là trống rỗi gõ làm nhịp mời Nữ thần về dự nghi lễ. Phần múa bông, múa mâm vàng, mâm bạc dâng bà và đặc biệt qua phần biểu diễn tạp kỹ, tính nghi lễ mờ nhạt dần rồi mất hẳn, thay vào đó là tính hội. Qua các màn biểu diễn ta thấy trong đó tích hợp nhiều hình thức văn hóa dân gian khác. Đó là các hình thức rỗi (hát mời) theo lối đọc kinh của đạo Cao Đài, của Phật giáo, các điệu hát của sân khấu Cải lương, của sân khấu Hát bội, cùng với các điệu lý, hát thờ, rỗi thờ... Đặc biệt, từ múa hát nghi lễ mang tính linh thiêng, các điệu múa dâng mâm vàng, dâng hoa mang tính kỳ diệu đã phát triển và tích hợp các trò tạp kỹ (phun lửa, tung hứng, đầu bêu, múa dao, mua lưỡi siêu...), vừa tạo nên tính thần bí, vừa gần gũi đời sống thường ngày, thỏa mãn nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của nhân dân. Đó cũng là xu hướng biến đổi của Múa bóng rỗi, tiếp cận được với đời sống xã hội đương đại.
Vậy, có sự liên hệ nào giữa Hát bóng rỗi và Lên đồng? Từ hình thức bóng cốt (hát bóng kiểu đồng cốt) thời gian đầu còn rơi rớt lại, đồng hành với bóng tuồng (hát bóng theo tuồng tích như hát bội) chúng ta có thể thấy sợi dây liên kết khá chặt chẽ của Lên đồng và Hát bóng rỗi. Thứ nhất bản thân cả hai đều không phải là những cá thể độc lập mà nằm trong một chuỗi nghi thức tôn thờ Nữ thần - sự nhân hóa tôn thờ tự nhiên, lực lượng sinh sôi, bảo vệ và che chở cho cuộc sống con người trong cộng đồng. Từ nhân lõi là hình thức Lên đồng – múa nhập thần để dâng cúng Bà ở cửa đền, cửa miếu, Múa bóng rỗi trong quá trình lịch sử mấy trăm năm đã tiếp xúc với nhiều cái mới, đã thay đổi để ngày càng đáp ứng hơn nhu cầu của những con người có tính cách phóng khoáng, không cầu kỳ, thích vui vẻ, thích xôm tụ để có thể tồn tại, phát triển thành một nghi lễ không thể thiếu trong lễ cúng Bà.
Trong bài viết ngắn này cũng như từ những kiến thức mới mẻ, non nớt của người mới bước chân vào tìm hiểu nghệ thuật Hát bóng rỗi, chúng tôi chỉ xin đưa ra những nhận định nhỏ để khẳng định rằng: Hát, múa bóng rỗi là một nghệ thuật, là thành tựu sáng tạo chung của nhân dân, hoàn toàn không mê tín dị đoan và cần có những biện pháp tích cực để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể này.
H.T
Tài liệu tham khảo:
- Ngô Đức Thịnh, Lên đồng – hành trình của thần linh và thân phận, Nxb Trẻ.
- Tư liệu điền dã cá nhân.
----------------------------------------------
Nghệ thuật múa bóng rỗi ở Bình Dương trong không gian văn hoá Nam Bộ
|
|
|
Kính thưa các độc giả của Tập san KHLS Bình Dương, cùng giới mộ điệu nghệ thuật múa bóng rỗi. Qủa thực, nếu ai đó có may mắn được một lần thưởng ngoạn những tiết mục múa bóng rỗi, ắt hẳn khó có thể quên được cái không khí liêng thiêng, những điệu nhạc huyền bí, những động tác múa điêu luyện pha lẫn những món nghề tạp kỹ khiến người xem không ngớt phải xuýt xoa. Tuy vậy, không nhiều người trong chúng ta biết một cách tường tận về môn nghệ thuật đặc sắc này.
Nhân đọc một số bài nghiên cứu về nghệ thuật hầu đồng – múa bóng rỗi của các tác giả như: GS.TS Ngô Đức Thịnh, PGS.TS Nguyễn Chí Bền. TS. Hoàng Sơn, Ths. Hồ Tường, nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng, Huỳnh Triều, Trần Triều Quang, Nguyễn Man Nhiên, Nguyễn Từ Đồng…Cộng thêm nguồn tài liệu điền dã cá nhân tại tỉnh Bình Dương, chúng tôi xin đề cập một số đặc điểm của nghệ thuật múa bóng rỗi để những ai quan tâm có thêm một vài tài liệu tham khảo, rất mong nhận được sự trao đổi, chia sẻ của các tác giả.
1.Nguồn gốc, tên gọi và các trường phái biểu diễn.
Hiện nay, vẫn còn nhiều quan điểm đối lập nhau về nguồn gốc hình thành nghệ thuật Múa bóng rỗi ở Nam bộ, song nhìn chung có 3 luồng ý kiến cơ bản như sau:
Luống ý kiến thứ nhất cho rằng: nghệ thuật Múa bóng rỗi ở Nam bộ bắt nguồn từ nghi thức lên đồng của đạo mẫu Tam phủ, Tứ phủ của miền Bắc (xuất hiện muộn nhất vào thời hậu Lê thế kỷ XV), tuy có một vài điểm khác biệt song nhìn chung về cách thức không có nhiều thay đổi, đặc biệt là yếu tố nhập đồng – nhập cốt thể hiện một nét chung khó có thể lẫn lộn với một hình thức nghi lễ nào.
Luồng ý kiến thứ hai cho rằng: nghệ thuật Múa bóng rỗi ở Nam bộ là một môn nghệ thuật hoàn toàn mới, nó khác lên đồng ở Bắc bộ từ bản chất lẫn hình thức thể hiện. Nhóm này cho rằng, múa bóng rỗi đã thoát khỏi những yếu tố thần linh (như nhập đồng, phán truyền…) nó chỉ đơn thuần là nghi thức dâng lễ vật trong việc thờ cúng Mẫu thần và các trò tạp kỹ nhằm mục đích phục vụ mua vui.
Luồng ý kiến thứ ba cho rằng: Múa bóng rỗi là một nghi thức quan trọng trong nghi lễ thờ Nữ thần, Mẫu thần của đạo Mẫu xuất phát từ Bắc bộ song đã có quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa với phức hệ văn hóa phía Nam gồm cả văn hóa Chăm (miền Trung), văn hóa người Hoa và văn hóa người Khmer (Nam bộ). Đây là luồng ý kiến nhận được nhiều sự đồng tình trong giới nghiên cứu và có sự ảnh hưởng nhất định về nhận thức của nghệ thuật Múa bóng rỗi nói chung.
Tóm lại, có thể nhận thấy cả 3 luồng ý kiến trên đều có một điểm chung nổi bật là: Múa bóng rỗi xuất phát từ nghi thức thờ cúng Mẫu thần, một tín ngưỡng xuất hiện rộng khắp cả vùng Đông Nam Á (bao gồm cả phần Nam Trung Hoa) nói chung và những vùng miền Việt Nam nói riêng. Với những tộc người khác nhau, việc thờ cùng Nữ thần, Mẫu thần cũng có những điểm khác nhau tương ứng. Sự khác biệt đó thể hiện từ đối tượng được thờ cúng (các bà chúa, bà mụ, nữ thần…) đến các hình thức thực hành nghi lễ mà trong đó Múa bóng rỗi là một nghi thức tiêu biểu của người dân Nam bộ.
Về tên gọi “Múa bóng rỗi” hay còn có một số tên khác như hát bóng rỗi, múa bóng rôi (Theo GS.TS Ngô Đức Thịnh), đây là cách gọi ghép, kết hợp giữa hai hình thức biểu diễn là hát rỗi và múa bóng:
-Hát rỗi: thường diễn ra trước, có ý nghĩa mời chầu, mời các Nữ thần, Mẫu thần về ngự và dự nghi lễ cúng miễu. Chính vì ý nghĩa đó mà nó còn được gọi là hát thỉnh, hát mời chầu. Tùy vào các cô bóng, cậu bóng mà có cách “rỗi” khác nhau: có thể là rỗi theo tuồng tích hoặc chỉ là những điệu thức riêng biệt.
-Múa bóng: Thuật ngữ này có nhiều cách hiểu khác nhau trong dân gian. Cách hiểu phổ quát nhất là múa dâng bông, có thể “múa bóng” là tiếng đọc trại từ múa bông, múa dâng bông. Đây là một điệu thức múa đặc trưng nhất có mặt hầu khắp các nghi thức của Đạo Mẫu nói chung như lên đồng (Bắc bộ), Múa bóng rỗi (Nam bộ), nghi thức cúng thần Pô Inư Nưgar của người Chăm, nghi thức thờ bà chúa Xứ của người Khmer. Múa tạp kỹ chỉ mới xuất hiện sau này và thường chỉ nhằm phục vụ người xem là chính.
Cách hiểu thứ hai về khái niệm “múa bóng” gắn liền với giới tính người thực hiện (cô bóng, cậu bóng). Những năm gần đây, những người múa bóng rỗi ở Nam bộ thường là những người “pêđê”, những người có xu thế hướng nữ từ tính cách, ăn mặc đến những cử chỉ nói năng. Và, những xu thế đó chúng ta vẫn thường gọi là bị “bóng”. Và cũng có thể xuất phát từ lối tính cách này mà người ta gọi múa của những người “pêđê” là múa bóng.
Cách hiểu thứ ba xuất phát từ việc “nhập đồng” của các ông đồng, bà bóng nói chung. Múa bóng – múa đồng bóng là một trạng thái “thăng hoa” khi các “giá đồng” (các bà mẫu, bà chúa, các nữ thần) nhập hồn (nhập bóng) vào thể xác của người hầu đồng để phán truyền hay biểu diễn các điệu múa. Ở hình thức lên đồng ở Bắc bộ, khi nhập động, bà đồng có những biểu hiện rất rõ nét, thường là lắc lư quay cuồng, cười, nói (có khi cả nói tục), nôn, mửa… nhập vào giá nào thì có những biểu hiện như nhân vật giá đồng đó. Các nhân vật nhập đồng dường như không còn là chính mình mà là một người khác hoàn toàn, chính vì điều này mà người ta nói múa đồng bóng – múa bóng được hiểu là những giá đồng (ví dụ: Bà chúa Ngọc, Bà Chúa, Bà Hoả Tinh, Bà Thuỷ Long, Bà chúa Tiên, Bà chúa Ngọc, Bà chúa Xứ, Bà chúa Động…) đang hiển linh và thực hiện nghi thức chứ không phải là các ông đồng, bà bóng đang thực hiện.
Về các trường phái biểu diễn múa bóng rỗi, trong bài viết “Về hai hình thức hầu đồng trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam bộ” của 2 tác giả PGS TS Nguyễn Chí Bền và Ths Hồ Văn Tường[2] đã đưa ra nhận định: “Phần nghi lễ liên quan nhiều hơn cả đến việc hầu đồng chính là hát bóng rỗi…”điều đó có nghĩa là hát bóng rỗi (hay múa bóng rỗi) là phần quan trọng nhất của nghi thức hầu đồng. Các tác giả Huỳnh Ngọc Trảng, Trần Tịnh Của cũng đồng quan điểm như vậy.
Tuy nhiên, vấn đề chúng ta đang cần đề cập ở đây là từ hai hình thức thờ Mẫu khác nhau thì cho ra đời hai nghi thức hầu đồng riêng biệt. Và, từ hai nghi thức hầu đồng riêng tạo nên 2 trường phái múa bóng rỗi tồn tại khác nhau tại Nam bộ:
-Trường phái thứ nhất: được truyền vào Nam bộ do những di dân miền Bắc và miền Trung vào miền Nam dưới thời Chúa Nguyễn và Triều Nguyễn. Những người Việt thường trú chân ở miền Trung một thời gian khá dài trước khi tiếp tục tiến vào Nam chính vì vậy tín ngưỡng thờ mẫu có sự giao lưu, tiếp biến với nhiều hệ thống tín ngưỡng của các tộc người khác. Và, nó đã có nhiều sự biến đổi.
-Trường phái thứ hai: được đem nguyên vẹn từ Bắc vào Nam dười thời Pháp thuộc và những cuộc di dân lớn sau đó (1954, 1975). Đặc điểm của trường phái này là tính “phục nguyên” một loại hình tín ngưỡng cũ nơi một mảnh đất mới. Giữa hai trường phái này có những điểm khác biệt từ trang phục, dấu hiệu nhập đồng, cách truyền phán, các điệu múa và cách phân phát lộc…
Tại Bình Dương đã từng tồn tại cả hai trường phái nói trên, song hiện nay chỉ có trường phái thứ nhất là còn thường xuyên hoạt động. Các di tích gắn liền với Múa bóng rỗi ở Bình Dương gồm có: 57 miễu thờ Ngũ hành nương ngương (tập trung ở huyện Tân Uyên: 34 miễu, huyện Thuận An: 20 miễu), (Theo số liệu điều tra không chính thức của Phòng Di sản văn hóa – Bảo tàng Bình Dương hiện nay lên tới 136 miễu), Chúa Xứ Thánh Mẫu (với hai tên gọi khác nữa: Ngung Man nương, chúa Tiên nương nương) có 47 miếu thờ (huyện Tân Uyên có 22 ngôi miễu thờ, huyện Bến Cát 8 ngôi, huyện Thuận An 8 ngôi, thị xã Thủ Dầu Một 8 ngôi miếu thờ).
Toàn tỉnh Bình Dương, có 7 cơ sở tín ngưỡng gắn bó với tín ngưỡng thờ Mẫu. Đó là đền Đức Thánh Trần Hưng Đạo (áp 2A, xã Phước Hoà, huyện Tân Uyên), phủ Minh Sơn (xã Minh Hoà, huyện Bến Cát) thờ Đức Thánh Trần, Sơn Lâm Thánh Mẫu, Liễu Hạnh Thánh Mẫu và phối tự thờ thành hoàng, Hoa Nghiêm Tự (ở khu 4, thị trấn Dầu Tiếng), thờ Đức Thánh Trần, chùa Sơn Lâm, Thánh Mẫu công chúa và phối tự thờ Adiđà; Đông Quân linh tự (khu 2 thị trấn Dầu Tiếng) thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo, nhị vị vương quan, Tam Toà Thánh Mẫu, Cô, Cậu, cùng với thờ Adiđà; Phủ Ứng Linh (khu 3, thị trấn Dầu Tiếng) thờ Đức Thánh Trần hưng Đạo và Liễu Hạnh công chúa; Đền Thánh Mẫu (ấp Lai Khê, xã Lai Hưng, huyện Bến Cát) thờ Liễu Hạnh công chúa, Đức Thánh Trần Hưng Đạo, Sơn Lâm Thánh Mẫu, thờ Ngũ Hành nương nương, Ngũ Hổ, trong khuôn viên còn có am Cô Bơ và Cậu Bé.
2.Diễn tiến và bản chất Múa bóng rỗi trong nghi lễ cúng miễu.
Như đã có phần nói ở trên, Múa bóng rỗi chỉ là 1 phần trong nghi thức hầu đồng hay gọi dân dã là nghi thức cúng miễu. Theo nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng diễn tiến của một nghi thức hầu đồng gồm có 8 phần là: Lễ khai tràng, Chầu mời - thỉnh tổ, mời tiên ra tuồng, Phước lộc, Trạng – Nàng xuống huê viên, Địa – Nàng, Bóng múa, hát chặp. Tuy vậy, ngày nay hiếm có đoàn rỗi nào lại thực hiện đủ 8 phần trên mà thường một nghi lễ cúng miễu chỉ có 4 phần chính: Khai tràng, Chầu mời - thỉnh tổ, Chặp Địa - Nàng, Hát bóng rỗi. Múa bóng rỗi tại Bình Dương cũng thường chỉ có 4 phần cơ bản như trên.
Nghi thức Múa bóng rỗi được chia làm 2 phần chính: phần múa dâng lễ và múa tạp kỹ (hay múa biểu diễn).
-Múa dâng lễ thường gồm các điệu: múa dâng bông (cúc, huệ), múa dâng mâm (mâm vàng hình tháp, mâm lộc trầu cau). Phần này thường mang nặng tính chất nghi lễ. Múa dâng lễ thông qua những động tác tạo hình biểu hiện sự kính dâng lễ vật lên thần linh. Đây là phần lúc nào cũng được mọi người quan tâm chờ đón. Một số bà bóng chịu khó tập luyện nên trình diễn những động tác múa khá điêu luyện, khéo léo như làm xiếc, khiến người xem lúc nào cũng hồi hộp, tò mò chờ đợi. Mọi người chờ đợi phần múa này còn có một nguyên do khác là để xin lộc bà (hoặc mua), lộc có thể là một nhánh huệ, một quả cau, một lá trầu…
-Múa tạp kỹ thường gồm các tiết mục như múa lu – khạp, múa dao, múa ghế…phần này thường nặng tính biểu diễn hơn là nghi lễ, mục đích chính là “…hầu bà, làm cho bà vui” (Theo Gia Định Thành Thông Chí – Trịnh Hoài Đức). Do phần luyện tập và biểu diễn các tiết mục tạp kỹ thường rất tốn sức và nguy hiểm cho nên khán giả thưởng ngoạn thường “thưởng” cho các cô bóng, cậu bóng một khoản tiền bồi dưỡng, động viên. Và, chính tiền lệ này đã gây ra không ít hệ lụy cho hình thức nghệ thuật này.
Về bản chất của nghệ thuật Múa bóng rỗi, có thể nói Múa bóng rỗi gắn liền với tục thờ nữ thần của nhân dân Nam Bộ, người dân Nam bộ còn gắn biểu tượng này cho những nữ nhân vật có công với nhân dân. Hình tượng của các bà còn chứa đựng sự khẳng định vươn lên và giải phóng người phụ nữ trong xã hội phong kiến vốn bị coi là thấp kém. Còn theo nhà ngoại cảm, “cô bóng” Nguyễn Thị Hằng thì “…hầu đồng là để biết ơn các vua chúa ngày xưa, các anh hùng đã có công với dân tộc, các bà thượng ngàn chuyên làm điều thiện…và mình phải biết ơn, phải ca tụng”. Nhiều miễu thờ bà còn thờ di ảnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở vị trí trang trọng nhất.
Múa bóng rỗi không hẳn đã thoát khỏi yếu tố thần linh một cách hoàn toàn: bên cạnh trường phái thứ 2 (di cư vào nam từ sau năm 1954) được xem là có sự phục nguyên của nghi thức lên đồng Bắc bộ. Trường phái thứ nhất vốn được xem là có nhiều sự biến đổi, đặc biệt từ “bản chất phán truyền” của hầu đồng Bắc bộ sang hình thức “dâng lễ, ca tụng, cầu xin” của bóng rỗi Nam bộ là một bước tiến lớn. Và, có nhiều học giả xem đó là một sự ra đời, một sự biến đổi hoàn toàn. Nhưng, ở đâu đó trong nghi thức múa bóng rỗi Nam bộ vẫn còn chứa đựng lớp tàn dư của lớp nghệ thuật trước, ví dụ như trong việc phát lộc: Cả ông Địa (trong chặp Địa – Nàng), và cô bóng ( trong Múa bóng rỗi) đều sử dụng yếu tố thần linh, làm phép (giải hạn, chữa bệnh…bằng vẩy nước) hay làm chước (lấy hoa huệ đã được làm phép về nấu nước tắm, hay cúng cho chùa bằng dầu hỏa, lập bàn thờ địa…vv), các ông đồng, bà bóng đều lấy danh nghĩa các giá đồng (Mẫu thần, Nữ thần) để thực hiện những nghi lễ này.
3.Nghệ thuật Múa bóng rỗi ở Bình Dương trong không gian văn hóa Nam bộ.
Có lẽ không chỉ ở Bình Dương mà ở khắp Nam bộ, Múa bóng rỗi đã và đang chịu nhiều sự phán xét, nhiều cách nhìn, nhiều cách suy nghĩ khác nhau từ cả những người làm quản lý văn hóa đến một bộ phận dân chúng. Người ta vẫn cho rằng: múa bóng rỗi là mê tín dị đoan, là lợi dụng tín ngưỡng để thu lợi…nhiều năm trước loại hình nghệ thuật dân gian này đã bị cấm thực hiện. Mấy năm gần đây, xu thế bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc đang lên cao vì vậy múa bóng rỗi mới có đủ điều kiện để hoạt động trở lại.
Trong bài viết này người viết xin không bàn luận gì thêm về cách quản lý và bảo tồn văn hóa của chúng ta. Song, yếu tố “…là mê tín dị đoan, là lợi dụng tín ngưỡng để thu lợi…” thì chúng ta cần phải làm rõ chủ thể của từng hành động.
Trước hết, chúng ta cần phải phân định rạch ròi 2 đối tượng: di sản văn hóa và người thực hiện di sản (là cá nhân hoặc cộng đồng). Trong trường hợp này múa bóng rỗi là di sản văn hóa chúng ta đang nói đến, còn đối tượng thực hiện di sản chính là ông đồng, bà bóng. Và, chính ông đồng, bà bóng mới là người quyết định đem múa bóng rỗi ra để thực hiện mục đích gì? Trong đó ít nhiều có hiện tượng bói toán, bán bông, ban lộc, bán ngọc bà…vv
Rõ ràng múa bóng rỗi với tư cách là một di sản văn hóa không mang bất kỳ một yếu tố mê tín hay vụ lợi nào. Nó đơn thuần là một hành vi tín ngưỡng trong sáng, có tính nhân văn (đề cao và biết ơn người phụ nữ, người có công với nhân dân), có tính giáo dục (khuyên nhủ mọi người hướng về cội nguồn, làm nhiều việc thiện), chỉ có sự vụ lợi cá nhân mới làm vẩn đục đi lớp nghĩa trong sáng đó. Nhiệm vụ của các nhà quản lý văn hóa là phải uốn nắn hành vi không đúng của người thực hiện văn hóa chứ không phải cấm đoán di sản văn hóa đó không được phép hoạt động.
Phải có mặt tại một lễ cúng miễu mới thấy bà con háo hức chờ đợi đến tiết mục múa bóng rỗi như thế nào. Đó có thể là tâm trạng háo hức chờ đợi chút lộc bà ban, cũng có thể là giây phút giải bày những lo toan bấy lâu dồn nén, hay chỉ đơn thuần là ngóng chờ những tiết mục múa tạp kỹ công phu – điêu luyện mà họ chưa có cơ hội vào rạp xiếc…
Thật sự, cũng không cần phải quá tinh ý mới nhận thấy rằng: Hội khai ấn đền Trần mỗi năm đều tổ chức rầm rộ với hàng trăm nghìn người tham gia, có 15 đến 20 điểm “bán” ấn với giá cả được quy định rõ ràng, người dân phải sắp hàng từ lúc nửa đêm - chen lấn – dẫm đạp lên nhau tranh mua cho được tờ ấn với niềm tin sẽ nhanh chóng thăng quan, tiến chức, ăn nên làm ra thì không sao ! trong khi đó múa bóng rỗi ở Nam bộ người dân xin bà phù hộ, thỉnh lộc bà với vài ba ngìn tùy lòng hảo tâm thì lại được cho là mê tín. Hay, các quan anh, liền chị của nghệ thuật quan họ miền kinh Bắc ở ao nào, hội nào cũng ngửa nón quai thao xin tiền du khách, báo chí, đài mạng dù có phản ảnh liên tục song cũng chẳng thay đổi được gì, trong khi đó ở múa bóng rỗi miền Nam, những tiết mục múa tạp kỹ phải bỏ nhiều công sức luyện tập, có tính nguy hiểm và hấp dẫn như múa lu, múa dao, múa ghế… bà con thường tự nguyện, thấy mếm phục mà động viên ít nhiều thì lại cho là lợi dụng tín ngưỡng để thu lợi…Thực tế đang tồn tại một sự “chênh” về cách nhìn nhận và quản lý di sản văn hóa giữa các vùng miền. Và nguy hại hơn, một số di sản đang bị nhìn nhận một cách thiếu khách quan dưới sự biểu đạt méo mó của người thực hành di sản.
Trở lại vấn đề “Múa bóng rỗi trong không gian văn hóa Nam bộ”, có thể thấy khi nói đến văn hóa Nam bộ người ta vẫn thường nhắc nhiều hơn đến Đờn ca tài tử, cải lương, các điệu lý – điệu hò, cũng không quá khó hiểu vì những loài hình nghệ thuật dân gian này thể hiện rất rõ nét đặc trưng của văn hóa Nam bộ đó là sự phóng khóang, bao dung, tính bình dị - dân dã. Song khi phải đối mặt với những thử thách to lớn, những giới hạn mà bản thân không thể vượt qua thì những lời ca tiếng hát đó khó có thể đem lại niềm tin và động lực thực sự, chỉ có tôn giáo, tín ngưỡng mới là những giá đỡ tin thần, những động lực giúp con người ta vượt qua những thử thách trong cơn tuyệt vọng. Và, đạo Mẫu là một trong những nền tảng tâm linh mà người dân vẫn thường gửi gắm. Đặc biệt, trong những đợt cúng miễu, dưới sự “hiện diện” của bà, và qua sự “kết nối” của ông địa, cô bóng, người dân có dịp cầu mong sự an lành, cầu mong cho tai qua - nạn khỏi, cuộc sống gặp nhiều may mắn, làm ăn thuận lợi trong năm…
Có lẽ sẽ còn rất lâu nữa Múa bóng rỗi ở Bình Dương và ở Nam bộ mới có thể lấy lại được hình ảnh và vị trí vốn có của mình. Và, cũng chưa biết khi nào nhận thức của các nhà quản lý văn hóa về múa bóng rỗi mới thay đổi. Nhưng có một điều chắc chắn rằng: Múa bóng rỗi đã, đang và sẽ tồn tại với tư cách là một nghi lễ tín ngưỡng, một hiện thực lịch sử …tồn tại hay không ? có ý nghĩa – giá trị hay không ? không phụ thuộc vào cách suy nghĩ, cách quản lý của bất kỳ tổ chức nào mà nó được khẳng định trong giá trị cộng đồng mà nó tồn tại…/…
Bình Dương, ngày 29/6/2011
Trần Đức Thuận – Tel: 0977.328.132
[1] Đức Thuận – Thanh Hòe – Ngọc Hằng Chi đoàn Bảo tàng Bình Dương.
[2]Ths. Hồ Văn Tường tên thường gọi là Hồ Tường võ sư chân truyền của môn võ Tân Khánh – Bà Trà, người Tân Phước Khánh – Bình Dương. Hiện đang nghiên cứu và truyền bá môn võ Tân Khánh – Bà Trà tại TP. HCM
|
|