Showing posts with label Tấm Gương Sáng. Show all posts
Showing posts with label Tấm Gương Sáng. Show all posts

Tuesday, April 03, 2012

Những triệu phú chưa hề tốt nghiệp phổ thông

Đối với một vài nhân tài đặc biệt thì trường đời cung cấp nhiều bài học kinh nghiệm có giá trị thiết thực hơn trường học.




Nhà sử học về lãnh đạo doanh nghiệp của đại học Harvard Nancy Koehn


Trên thực tế, nhiều doanh nhân và nghệ sĩ đã chứng minh mình quyết định sáng suốt khi “ra đời” sớm bằng sự thành công vang dội khắp năm châu… Dù còn rất trẻ, nhưng quyết tâm và đam mê là nguồn sức mạnh vô tận giúp họ vượt qua những tháng năm gian khó để hoàn hảo hóa sản phẩm và chinh phục các nhà đầu tư.

Nhà sử học về lãnh đạo doanh nghiệp của đại học Harvard Nancy Koehn cho rằng: những doanh nhân vĩ đại không phải bẩm sinh mà thành công phần lớn nhờ kinh nghiệm và bài học họ thu lượm ngoài trường đời. Và vì thế, bằng đại học hay thậm chí bằng tốt nghiệp Phổ thông, cũng không còn giá trị.

Một số người tự lập sớm vì không muốn bỏ qua bất cứ cơ hội nào. Lại có những người được gia đình, bạn bè, thầy cô động viên và hỗ trợ. Nhưng dù bắt đầu thế nào, tất cả họ đều có điểm chung là tầm nhìn và quyết tâm hướng đến thành công.

Những trường hợp điển hình:




Robert De Niro

Rời trường ở tuổi 17, nam diễn viên hai lần đoạt giải Oscar kiêm đạo diễn và nhà sản xuất phim nổi tiếng này tích lũy bài học kinh nghiệm từ Actor's Studio của Strasberg và Stella Adler Conservatory.

Không bám lấy nhà trường mà lao ra cuộc đời, anh học nghề diễn xuất và học cả cách kinh doanh.




Kirk Kerkorian

Nhà tài phiệt chuyên ngành resort này bỏ học từ năm lớp 8 để theo đuổi sự nghiệp đấm bốc nghiệp dư.

Và hiện tại, ông sở hữu tài sản có tổng giá trị 3 tỷ USD. Nguồn thu chính đến từ các khách sạn International Hotel và MGM Grand trong khu Vegas Strip.

Năm 2006, Kerkorian đã mua phần lớn cổ phần của MGM Mirage. Quỹ Lincy của ông óng góp 180 triệu USD cho những nỗ lực kiến thiết Armenia và nhiều hoạt động từ thiện đa dạng khác.




Francois Pinault

Ai cũng biết người đàn ông giàu thứ ba nước Pháp này ở hữu phần lớn cổ phần của những doanh nghiệp hàng đầu như Christie's Auction House, Gucci, Samsonite và Puma, nhưng ít ai ngờ ông đã bỏ học từ thời cấp III năm 1947 để phục việc trong nhà máy gỗ của cha.

Một trong những lý do Pinault bỏ học là vì bạn bè trêu chọc xuất thân nghèo hèn. Và ngày nay thì ông có tổng tài sản trị giá 8,7 tỷ USD.




Peter Jackson

Sinh ra trong gia đình bình dân, cha mẹ làm công nhân nhà máy và thư ký, người nghệ sĩ hai lần đoạt giải Oscar này bỏ học từ những năm cấp III.

Ông sớm bộc lộ khiếu làm phim và tự dựng nhiều phim ngắn bằng chiếc máy quay phim Super 8 cine. Đến năm 20 tuổi, ban ngày ông làm nhân viên khắc bản in ảnh cho báo, ban đêm, ông tự thực hiện những bộ phim kinh dị hài. Và tác phẩm gây ấn tượng đầu tiên là Heavenly Creatures năm 1994.

Jackson bước lên đỉnh vinh quang với thành công của bộ 3 phim “Chúa tể Những chiếc nhẫn” có tổng doanh thu 3 tỷ USD toàn thế giới.





Billy Joel

Sau khi biết rằng mình thiếu mất một học phần trong yêu cầu của trường để có bằng tốt nghiệp Phổ thông, Billy Joel đã có tuyên bố lừng danh là: “Tôi không đến Đại học Columbia mà đến hãng ghi âm nhạc Columbia, nơi bạn không cần có bằng tốt nghiệp Phổ thông” vào năm 1967.

Người nghệ sĩ lừng danh từng 6 lần đoạt giải âm nhạc uy tín nhất bậc thế giới Grammy đã bán 150 triệu đĩa khắp thế giới. Mới tháng 3/2010 đây, anh vừa kết thúc tour lưu diễn với huyền thoại âm nhạc Elton John.

Trường Phổ thông xưa kia của Joel cuối cùng đã đồng ý cấp bằng tốt nghiệp sau khi anh rời trường 25 năm.

Tổng tài sản của anh có giá trị ước tính 160 triệu USD.





Richard Carmona

Vị cựu tướng quân y này là một ví dụ điển hình của việc bạn có thể làm mọi thứ mình muốn, gồm cả việc bỏ học cấp III.

Năm 1967, ông Carmona bỏ học trường Phổ thông Dewill Clinton ở tuổi 16 và đăng ký gia nhập quân đội. Ông đã tốt nghiệp hàng đầu chương trình y tế tại đại học California, San Francisco năm 1979. Tổng thống George W. Bush đã chỉ định Carmona làm Tướng quân y của Hoa Kỳ năm 2002.







Catherine Zeta-Jones

Cô gái của người thợ may và chủ nhà máy bỏ học từ năm 15 tuổi để theo đuổi sự nghiệp diễn xuất ở London. Cô tỏa sáng từ những năm 90 với diễn xuất bên cạnh Anthony Hopkins và Antonio Banderas trong phim “Mặt nạ Zoro”.

Đến năm 2002, Zeta-Jones chinh phục khán giả với vai Vlema Kelly trong bộ phim âm nhạc “khủng” Chicago, đoạt giải giải Oscar, BAFTA Award và Screen Actors Guild Awar.

Cô còn xuất hiện trong những quảng cáo Elizabeth Arden, T-Mobile, Alfa Romeo và trang sức Di Modolo. Tổng tài sản của Zeta-Jones ước tính là gần 45 triệu USD.





Don Imus (John Donald Imus Jr.)

Bỏ học năm 17 tuổi, Imus gia nhập quân đội, làm lính kèn. Rồi đổi nghề làm người gác phanh xe lửa. Đến năm 1968, ông vào làm cho một đài phát thanh nhỏ ở Palmdale, California đến khi bị đuổi việc vì rủa “Chết tiệt” trong khi đang phát sóng.

Rồi ông chuyển sang làm cho những đài phát thanh khác ở Sacramento, Cleverland, rồi lên New York năm 1971. Năm 2007, show buổi sáng shock jock's morning show (mỉa mai thậm tệ những nữ vận động viên bóng rổ của Rutgers) bị ngưng vào năm 2007 nhưng rồi được đài WABC mua với giá 40 triệu USD.






Jay-Z (Shawn Carter)

Siêu sao hip hop này đã bỏ học để bôn ba đầu đường xó chợ trước khi thực hiện đĩa đơn đầu tiên với công ty ghi âm đĩa nhạc Def Jam năm 1995.

Đến năm 2008, anh ký hợp đồng 10 năm trị giá 150 triệu USD với Live Nation, cho phép tự do ghi âm, đi lưu diễn svà ký hợp đồng đại sứ thương hiệu với những công ty như Dell và Budweiser.

Siêu sao hip hop 10 lần thắng giải Grammy này có tổng giá trị tài sản là 450 triệu USD.







Carl Lindner

Bỏ học để phụ gia đình đi giao sữa. Đến năm 1940, ông vay 1.200 USD để mở tiệm kem với chị gái và hai anh trai.

Năm 1959, ông nhảy ra đầu tư vào ngành cho vay và bảo hiểm. Đến năm 1984, Lindner mua hãng sản xuất và cung ứng trái cây rau quả tươi Chiquita Brands International và điều hành công ty đến năm 2001.

Công ty sản phẩm từ sữa của gia đình United Dairy Farmers hiện có khoảng 200 tiệm bán kem và cửa hàng tiện lợi, giúp tăng tổng giá trị tài sản của Lindner lên khoảng 1,7 tỷ USD.







Simon Cowell

Vị giám khảo có những lời nhận định chua cay trong Americam Idol thu về 80 triệu USD năm ngoái, nhờ tham gia vào các show truyền hình lừng danh thế giới American Idol; Britain's Got Talent; The X Factor và tiền lời từ công ty riêng SyCo.

Anh chàng thành đạt và hào hoa này nghỉ học từ năm 16 tuổi để làm việc văn thư trong công ty EMI. Đến năm 23, anh bắt đầu sự nghiệp riêng trong ngành âm nhạc với công ty tự mở Fanfare.

Cowell hiện tập trung vào show truyền hình The X Factor phiên bản tại Hoa Kỳ, nơi anh vừa làm giám khảo, vừa làm nhà sản xuất.







Richard Branson

Con trai của một luật sư và nữ tiếp viên hàng không bỏ học trường Stowe năm 16 tuổi để lập tạp chí nghệ thuật và văn hóa Student.

Năm 1970, ở tuổi 20, ông mở tiệm bán băng đĩa Virgin nhận đặt hàng qua thư. Và sau đó là chuỗi cửa tiệm bán và studio ghi âm băng dĩa nhạc Virgin Records và Virgin Music.

Hiện tập đoàn Virgin Group của ông bao gồm 200 công ty tại 30 quốc gia, phát triển sang ngành hàng không, đại nhạc hội, điện thoại di động và nhiều ngành kinh doanh khác.

Branson sở hữu một chuỗi đảo ở vùng biển Caribbean tên Necker and Mosquito và có tổng tài sản trị giá 4 tỷ USD.

DNSG

Con đường trở thành CEO hàng đầu phố Wall của Lloyd Blankfein

Lloyd Blankfein đã vươn lên đứng đầu thế giới tài chính Mỹ khốc liệt nhất thế giới bằng những tính cách rất riêng của mình.

Trong vai trò nhân viên tự doanh của J. Aron, Blankfein chỉ ra việc khiến khách hàng nổi giận không nằm trong mục tiêu “tham lam trong dài hạn” của Goldman Sachs.

Năm 1984, Kurl Winkelman, trưởng bộ phận khách hàng và chiến lược đầu tư của Goldman Sachs đã giao cho Blankfein quản lý 6 nhân viên tự doanh ngoại hối và sau đó quản lý luôn bộ phận này.

Robert Rubin, đồng chủ tịch Goldman Sachs và sau này làm Bộ trưởng Tài chính Mỹ, đã phản đối quyết định của Winkelman: “Ông đã sai rồi. Không nên làm như vậy. Tôi chưa bao giờ thấy nhân viên tự doanh chịu trách nhiệm các mảng khác trong công ty. Ông có chắc đã phân tích tốt tình hình?”

Winkelman không thay đổi quyết định của mình. Blankfein cho biết ông thật sự tôn trọng Winkelman: “Ông ấy đã rất ủng hộ tôi và tôi thực sự đánh giá cao con người ông ấy.”

Sự nghiệp của Blankfein từ giai đoạn này “cất cánh”. Ông dường như có giác quan thứ 6 về việc khi nào nên chấp nhận rủi ro và khi nào nên cẩn trọng. Ông nói với Fortune: “Người tự doanh tốt nhất không đưa ra quyết định đúng nhiều hơn quyết định sai. Họ đơn giản thích ứng tốt.”

Chính Blankfein có khả năng thích ứng tốt, không phải chỉ trong công ty con J. Aron mà còn trong việc ông biết cần làm điều gì để đứng đầu một công ty có mô hình hoạt động phức hợp như Goldman Sachs.

Ông Jacob Goldfield, người từng làm việc với Blankfein, cho biết: “Ông chấp nhận rủi ro dù ông biết ông có thể để mất đi sự tín nhiệm. Có thể ông biết ngay cả nếu mất tiền, ông vẫn được người ta tin tưởng bởi sự tín nhiệm về khả năng luôn đúng không quá quan trọng đến như vậy. Việc một người tự doanh học được điều gì khi anh ta thua lỗ quan trọng hơn nhiều, ông chỉ ra cho người ta thấy dù ông thắng hay thua, ông đang học được cái gì.”

Năm 1988, cùng với Bob Steel và một số lãnh đạo tiềm năng của Goldman Sachs bao gồm John Thornton và John Thain, nhà đầu tư tỷ phú J. Christopher Flowers, chuyên gia quản lý quỹ Frank Brosens và Gary Gensler (hiện làm chủ tịch Ủy ban giao dịch hàng hóa tương lai CFTC), Blankfein nằm trong nhóm 36 người đàn ông (không có bất kỳ một phụ nữ nào) được bầu làm quản lý cao cấp.

Blankfein đôi khi rất hiếu chiến. Goldfield kể lại: “Ông có thừa năng lượng cho các cuộc đối đầu và ông đã làm rất tốt.” Có khi Blankfein cho nhân viên thân tín của mình tham gia vào các cuộc cạnh tranh chứ không trực tiếp ra mặt, điều này có thể khiến người khác không mấy vui vẻ và bị coi như hành xử hèn nhát.

Goldfield nhận xét Blankfein được trời phú cho khả năng hài hước và tự tôn cao, 2 tính cách thường không thấy ở các CEO thành công nhất phố Wall. Khi ai đó nói về khả năng Blankfein có thể sẽ chết sớm, như bố mẹ ông, ông lập tức than phiền rằng ông sẽ không thể thấy được kết quả của thí nghiệm nuôi con của mình.

Blankfein quyết định phát triển cả sự nghiệp và cải thiện sức khỏe. Ông giảm cân theo chế độ ăn kiêng Atkins. Ông ăn mặc giống một nhân viên ngân hàng hơn một kẻ nổi loạn. Và khi vợ động viên, ông cố gắng bỏ thuốc lá. Ông nói: “Hẳn mọi chuyện đã thật tồi tệ nếu tôi không dừng lại và người đã giúp tôi chính là Laura.”

Năm 1994, khi Winkelman rời Goldman để sang làm quản lý cao cấp tại công ty khác, Blankfein đã được đưa lên vị trí quản lý J.Aron. Năm 1995, ông đã mắng nhiếc các cộng sự của mình bởi họ quá nhát gan. Ông đã thể hiện rõ thái độ bằng cách rời khỏi phòng họp nơi các cộng sự đang bàn về thương vụ nhiều triệu USD đặt cược vào khả năng đồng USD tăng giá so với đồng yên. Quan điểm của ông sau đó chuẩn xác, Blankfein kiếm được tiền và giành được sự tin tưởng của đồng nghiệp về một chuyên gia đầu tư biết mạo hiểm một cách thận trọng.

Năm 1997, Goldman bổ nhiệm Blankfein quản lý công ty J.Aron và bộ phận kinh doanh thu nhập cố định của Goldman Sachs có tên FICC. Ông điều hành bộ phận này từ văn phòng tại London vào năm 1998 và năm 1999.

Goldman trở thành công ty đại chúng vào năm 1999 và nội bộ trở nên căng thẳng đến nỗi nhiều đối thủ tiềm năng của Blankfein rời công ty. Nguyên nhân cơ bản ở chỗ Blankfein chịu trách nhiệm cỗ máy kiếm tiền của Goldman và đưa công ty lên nhiều đỉnh cao mới cũng như sự nghiệp của ông phát triển bùng nổ.

Chính Blankfein không thể nhớ nổi từ lúc nào sự nghiệp của ông lên tầm cao mới.

Ông cho biết bí quyết thành công của ông tại Goldman Sách đơn giản nằm ở khả năng thích nghi với tình hình, hoàn cảnh mới và người mới thế nhưng theo cách thức giao tiếp mới. Ông nói: “Tôi tin vào khả năng xét đoán tình hình và con người, tôi cố gắng hiểu họ, hiểu cái họ đang nói và tình hình ra sao. Tôi không bao giờ chịu áp lực quá lớn từ những lời thuyết phục về cái tôi đang nghĩ. Tôi có thể cởi mở với ý kiến của người khác. Tôi nghĩ cái gì đã đúng với cả một thế hệ thì nó xảy ra cũng không thể ngẫu nhiên. Tuy nhiên tình hình đã đổi khác, cái gì đúng trong quá khứ có thể sai trong hiện tại và bạn phải thay đổi nó. Tôi không coi người khác là ngốc ngếch.”

Ông có tài kiếm tiền cực giỏi. Ông tài giỏi và lấy lợi nhuận làm mục tiêu cũng giống như phần lớn người tồn tại trên phố Wall nói chung và Goldman nói riêng. Tất nhiên giới lãnh đạo cao cấp nhất của Goldman Sachs không thể không chú ý đến tính cách trên của ông. Ông không muốn quá đặt nặng mục tiêu vào việc kiếm tiền dù nhiều người trong công ty cho rằng ông quá quan tâm đến lương thưởng và muốn kiếm càng nhiều càng tốt do ám ảnh bởi tuổi thơ khốn khó.

Ông đã có cuộc sống khấm khá. Năm 2008, ông chi 26 triệu USD mua căn hộ kép đối diện với Công viên Trung tâm. Ông mua căn hộ mới trước khi bán căn hộ cũ 5 phòng ngủ tại địa chỉ 941 Park Avenue. Căn hộ này cuối cùng được bán vào tháng 8/2010 với giá 12,15 triệu USD. Ông còn dành 41 triệu USD mua căn nhà 13 phòng ngủ tại Southampton.

Thế nhưng khi thông tin về các vụ mua nhà của ông đến tai giới truyền thông, công chúng lại có dịp soi mói. Ông và gia đình quyết định không bán căn nhà của họ tại Sagaponack, trước đó đã được rao bán vào năm 2007 với giá chưa đầy 14 triệu USD.

Dư luận lại chĩa “mũi dùi” vào gia đình ông vào mùa hè năm 2009, ông đã phải yêu cầu các nhân viên Goldman Sachs tránh mua sắm các khoản lớn. Khi ấy, vợ ông và vợ một chuyên gia điều hành cao cấp khác tại Goldman đã bị New York Post coi như kẻ gián đoạn và gây quá nhiều sự ồn ào tại sự kiện mua sắm ở Hampstons.

Đến thời điểm này, ban lãnh đạo của Blankfein, đặc biệt ông Paulson (sau này làm Bộ trưởng Tài chính Mỹ thời cựu Tổng thống Bush), đã quá ấn tượng với tính bền bỉ, tham vọng và khả năng điều hành công việc kinh doanh của Blankfein.

Một quản lý cấp cao của Goldman Sachs kể: “Hank Paulson băn khoăn về việc Thornton hay Thain, đồng chủ tịch của Goldman trước Blankfein sẽ chịu trách nhiệm cho hoạt động kinh doanh và thể hiện rằng họ có thể làm được việc, thế nhưng trong lúc đó Lloyd đã cho thấy sự sẵn sàng đảm nhận công việc.”

Paulson và Blankfein trở thành nhóm làm việc hiệu quả. Paulson đi khắp thế giới kết thân với khách hàng còn Blankfein đảm nhiệm thêm hoạt động quản lý công ty. Năm này qua năm khác, công ty kiếm thêm được hàng tỷ USD lợi nhuận.

Cựu Bộ trưởng Tài chính Mỹ khi đến gặp Blankfein đã quá ấn tượng: “Khi tôi đến gặp ông, người tôi thực sự ngưỡng mộ, chính là cách ông ăn, ngủ, uống với công việc kinh doanh và thị trường.”

Ông ấy yêu công việc của mình. Ông phản ứng nhanh nhạy và cực kỳ thông minh. Thế nhưng xã hội còn quá nhiều các anh chàng thông minh, thậm chí cực thông minh nhưng không tốt, kéo người khác vào rắc rối hoặc không thể đưa ra xét đoán tốt. Lloyd khác biệt bởi ở con người ông chẳng có chút tự phụ nào.

Ông nhận thức rõ về yếu điểm của mình và muốn làm tốt hơn. Khi nhìn vào một số người và chứng kiến con đường họ đi trong khoảng từ 15 đến khoảng 20 năm và đạt đến cấp cao nhất định, thành công của họ nhiều hơn, nhưng yếu điểm cũng bộc lộ rõ ràng hơn. Lãnh đạo tốt cần khả năng nhận ra yếu điểm cả họ và khả năng tự phát triển. Paulson nhìn thấy tất cả các đức tính trên ở Lloyds.


CafeF

MICHAEL DELL – HÀNH TRÌNH ĐẾN THÀNH CÔNG

Một trong những việc tôi thích thú nhất là nghiên cứu về cuộc đời của những doanh nhân thành đạt. Qua kinh nghiệm của họ, chúng ta học hỏi được cách nhận diện một ý tưởng hoặc cơ hội kinh doanh tuyệt vời cũng như một số dự án khởi nghiệp và bí quyết thành công hữu ích. Ngoài ra, bạn còn có thể học được cách tránh những sai lầm họ từng mắc phải. Quan trọng nhất là bằng cách đi theo con đường đã dẫn họ đến thành công, bạn sẽ có nhiều cơ may để trở nên giàu sang như họ.



Ngay từ lúc 12 tuổi, cậu bé Michael Dell đã cho thấy những phẩm chất của một doanh nhân vĩ đại khi “đánh hơi” được cơ hội kinh doanh trong việc sưu tầm tem. Sau khi kiếm được 2,000 USD từ cách kinh doanh này, Dell hiểu rằng, chỉ cần tiếp tục vận dụng khả năng nhận diện cơ hội kinh doanh thiên bẩm của mình là cậu có thể trở nên giàu có.

Đến năm 16 tuổi, Dell nhận thấy những người mới dọn đến gần nhà cậu có thể có nhu cầu đặt mua báo dài hạn.



Vì thế, sau khi nghiên cứu danh sách vay cầm cố và đăng ký kết hôn ở thành phố mình sống, cậu tiếp xúc với những người này và thuyết phục họ đặt mua báo. Đây quả là một ý tưởng kinh doanh tuyệt vời vì chỉ trong năm đầu tiên bán báo, Dell đã kiếm được hơn 18,000 USD. Tuyệt hơn nữa, ngay trước khi tốt nghiệp trung học, cậu đã kiếm đủ tiền để mua được một chiếc BMW.

Một trong những yếu tố quan trọng nhất dẫn đến thành công của Dell chính là kỹ năng về con người. Để thành công trong kinh doanh, một doanh nhân luôn cần có khả năng tiếp cận và kết nối với con người với con người; cũng như giới thiệu dịch vụ và sản phẩm một cách thuyết phục đến khách hàng. Đây là yếu tố tối quan trọng để làm giàu.

Sau khi tốt nghiệp trung học, Dell theo học tại Đại học Texas với ý định trở thành một bác sĩ. Chính trong căn phòng của mình tại ký túc xá Đại học này, anh đã nghĩ ra một ý tưởng kinh doanh mà về sau đã tạo nên một cuộc cách mạng trong ngành kinh doanh máy tính.

Vào thời điểm đó (năm 1984), giá máy tính phổ biến ở mức 3,000 USD. Dell nghiên cứu và nhận thấy nếu mua rời phụ tùng máy tính thì anh chỉ mất có 600 USD. Còn nếu anh lắp ráp chúng lại thành máy tính hoàn chỉnh thì ông có thể bán với giá thấp hơn mức giá gốc nhiều mà vẫn có thể kiếm được lợi nhuận. Đây quả là một cơ hội kinh doanh và làm giàu tuyệt vời. Vì thế, anh quyết định bỏ học để thành lập công ty riêng kinh doanh máy tính tên PC’s Limited.

Đúng như anh dự đoán, công ty ngay lập tức thành công lớn. Áp dụng một hệ thống độc nhất vô nhị để sản xuất máy tính tùy theo nhu cầu cá nhân với mức giá cực thấp so với máy tính có thương hiệu, PC Limited đã đạt doanh thu 6 triệu USD ngay trong năm đầu tiên. Kể từ đó, Dell liên tục thành công và trở thành tỷ phú.

Tóm lại, có 2 yếu tố chính dẫn đến sự thành đạt của Michael Dell như ngày hôm nay. Trước tiên là khả năng nhận diện cơ hội kinh doanh thiên phú của ông, mà nói theo cách khác, chính là khả năng mang lại những dịch vụ tốt nhất cho khách hàng. Thứ hai là sự quyết tâm tìm ra phương cách để giảm giá sản phẩm máy tính trên thị trường. Ông đã làm được điều này bằng cách cắt bỏ khâu trung gian để có thể giao dịch trực tiếp với khách hàng. Nhờ vậy, lượng người mua máy tính của ông đã gia tăng đáng kể trong khi ông vẫn thu được lợi nhuận.

Innocent Ibhaluobe
Chuyên viên tư vấn quản lý kinh doanh
(Theo successprinciplesonline.com)




Những CEO lương một đôla nổi tiếng trên thế giới


Họ là những con người thành đạt và tin rằng mức lương một đôla thể hiện cam kết của họ trong nỗ lực tạo ra các giá trị mới cho cổ đông.Và cũng chỉ mới một đôla đó, họ kỳ vọng giá cổ phiếu của công ty sẽ tăng theo nhờ nỗ lực của mình.Những CEO đã hoặc đang hưởng mức lương tượng trưng chỉ 1 USD, không giống những đồng nghiệp của họ trong danh sách 500 CEO được trả lương cao nhất thế giới của Forbes. Trong danh sách đó, tổng lương thưởng của tất cả các CEO lên tới 4,5 tỷ USD năm 2010.

Còn các CEO lương thấp này thoạt nhìn thì có vẻ hẩm hiu, nhưng con số một đôla này hoàn toàn không tính đến tất cả cổ phiếu thưởng và các ưu đãi khác. Các công ty được dẫn dắt bởi những CEO trong danh sách này cũng chính là các công ty có cổ phiếu hoạt động tốt nhất trong những năm gần đây. Điều này chứng tỏ một khi lợi ích của các giám đốc điều hành gắn chặt với lợi ích của cổ đông, thì đôi bên đều có lợi.

1. Larry Ellison của Oracle


Những CEO lương một đôla nổi tiếng trên thế giới
Larry Ellison, CEO Oracle.

Nếu lên danh sách các đặc điểm của CEO 1 USD, bạn sẽ thấy có khiêm tốn, tiết kiệm và từ thiện. Ellison chính là người tiêu biểu cho đặc điểm thứ ba: ông đã đồng ý cho đến 95% tài sản của mình với mục đích làm từ thiện. Tuy nhiên, xét về khoản tiết kiệm thì có vẻ không đúng lắm khi ông cũng từng sở hữu du thuyền lớn nhất thế giới, ngôi nhà lớn nhất thế giới và thậm chí là cả dàn loa lớn nhất thế giới. Ellison có khối lượng tài sản khổng lồ trị giá 39,5 tỉ USD và là người giàu thứ 5 trên thế giới.

2. Steve Jobs của Apple


Những CEO lương một đôla nổi tiếng trên thế giới
Steve Jobs, CEO Apple.

Steve Jobs đã biến Apple trở thành công ty hàng đầu trên thị trường và luôn luôn thay đổi thế giới. Trong số các công ty tại Mỹ, thì Apple chỉ đứng sau ExxonMobil về mức vốn hóa thị trường. Kể từ khi quay trở lại công ty năm 1997, Jobs chỉ nhận mức lương một đôla mỗi năm và tạo ra mức hoàn vốn là 8,333% cho các cổ đông.

3. Larry PageEric Schmidt của Google


Những CEO lương một đôla nổi tiếng trên thế giới
Larry Page và Eric Schmidt của Google.

Cả Larry Page và Eric Schmidt - hai nhà đồng sáng lập ra Google chỉ nhận mức thù lao tượng trưng là 1 USD để điều hành cả cỗ máy tìm kiếm khổng lồ. Trước đây, khi còn là giám đốc sản phẩm của Google, Page đã từng nhận mức thưởng khi đi nghỉ là 1.785 USD năm 2010. Và giờ anh có số tài sản trị giá 19,8 tỉ USD bao gồm số cổ phiếu của Google và các khoản trả khác.

4. Jen Hsun-Huang của NVIDIA


Những CEO lương một đôla nổi tiếng trên thế giới
CEO Jen Hsun-Huang của NVIDIA.

CEO của NVIDIA Jen-Hsun Huang cũng nhận mức lương một đôla trong năm 2010. 2009 là một năm đầy khó khăn đối với NVIDIA, nhưng thay vì sa thải nhân viên, Huang và các thành viên HĐQT của NVIDIA lại quyết định chỉ nhận mức lương tượng trưng này. Năm 2009, ông từng nhận được 4 triệu USD gồm lương và thưởng cổ phiếu.

5. Edward Liddy của AIG


Những CEO lương một đôla nổi tiếng trên thế giới
CEO Edward Liddy của AIG.

Giám đốc điều hành của tập đoàn AIG - Edward Liddy – cũng nhận mức lương một đôla cho năm 2010 và 2011. Tuy nhiên, giống như các đồng nghiệp khác trong danh sách này, Liddy vẫn sẽ được nhận các khoản cổ phiếu không công khai và có lẽ số tiền đó sẽ giúp ông chi trả được cho cuộc sống của mình một thời gian dài.

6. Jerry Yang của Yahoo!


Những CEO lương một đôla nổi tiếng trên thế giới
CEO Jerry Jang của Yahoo!

Yang lên thay Terry Semel làm CEO của Yahoo và cũng nhận mức lương một đôla mỗi năm. Năm 1994, cùng với David Filo tại Đại học Stanford, Yang đồng sáng lập ra một chương trình tìm kiếm địa chỉ trên mạng với tên gọi: “ Jerry and David Guide to the World Wide Web ” và sau này phát triển thành Yahoo! Anh chỉ nhận 1 USD, nhưng người kế nhiệm của anh là Carol Bartz thì lại ngược lại, khi chỉ riêng lương cơ bản cho cô đã là hơn 1 triệu USD mỗi năm.

7. Vikram Pandit của Citigroup


Những CEO lương một đôla nổi tiếng trên thế giới
Vikram Pandit, CEO của Citigroup.

CEO người Ấn Độ của tập đoàn tài chính khổng lồ Citigroup đã nhận mức lương một đôla cho năm 2009 và 2010. Vì những hậu quả tiêu cực mà cuộc khủng hoảng tài chính gây ra, Pandit đã tuyên bố trước HĐQT của Citigroup rằng “lương của tôi sẽ chỉ là một đôla mỗi năm cho đến khi chúng ta có lợi nhuận”. Và do vậy, tháng 1/2011, khi Citigroup công bố báo cáo kinh doanh quý thứ tư liên tiếp có lãi, đưa 2010 trở thành năm đầu tiên có lợi nhuận kể từ 2007, ông Pandit đã được tăng lương lên mức 1,75 triệu USD mỗi năm.


Theo VnExpress

Tuesday, March 27, 2012

Quách Tuấn Khanh – “Không bao giờ sống dưới mức tiềm năng”

Năm 1994, anh nghỉ học giữa chừng khi đang là sinh viên Trường Đại học Y dược Tp.HC. Năm 2000, anh từ bỏ công việc khi đang là một trong những chuyên gia PR hàng đầu trong nước. Tất cả đều vì một mục đích, tìm kiếm cho mình một niềm say mê thực sự, và cuối cùng anh đã tìm thấy: trở thành một diễn giả chuyên nghiệp. Anh chính là người tiên phong trong nghề diễn giả tại Việt Nam , Quách Tuấn Khanh – Giám đốc Trung tâm Thành Công và Hạnh Phúc.



 Năm 1991, Quách Tuấn Khanh thi đậu vào Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh, theo mong muốn của cha mẹ. Thế nhưng, trở thành một bác sĩ nối nghiệp cha mẹ không phải là điều mà anh mong đợi. Những năm tháng học ở đây trở nên khó khăn khi bản thân anh không hề hứng thú với những kiến thức y khoa. Năm thứ ba đại học, anh quyết định rời khỏi trường để tìm cho một con đường mới mà mình cảm thấy thực sự yêu thích.

Quyết định của Quách Tuấn Khanh đã làm cho cha mẹ anh rất thất vọng. Họ quyết định cắt mọi khoản phụ cấp cho anh. Tự mình phải lo liệu mọi thứ, nhưng anh vẫn cho rằng mình đã lựa chọn đúng đắn. Anh xin làm biên dịch cho các tờ báo tiếng Anh. Quách Tuấn Khanh chọn công việc này không chỉ đơn giản là để có thu nhập trang trải cuộc sống, mà đó còn là bước chuẩn bị cho những kế hoạch sắp tới của anh.

Năm 1994, Quách Tuấn Khanh thi đậu vào khoa Quản trị kinh doanh – Đại học Mở – Bán công thành phố Hồ Chí Minh. Quá trình phấn đấu không ngừng trong suốt bốn năm học của anh đã mang lại kết quả xứng đáng khi tốt nghiệp thủ khoa. Không dừng lại ở đó, anh tiếp tục học tiếp để lấy bằng MBA tại Đại học Bách Khoa.

Trong thời gian này, Quách Tuấn Khanh bắt đầu tìm hiểu và tham gia vào công việc PR cho các doanh nghiệp, đồng thời được một số trường đại học mời giảng dạy về PR. Nghề PR hầu như là một khái niệm còn rất mới mẻ vào thời điểm đó. Những người thực sự làm nghề này ở Việt Nam gần như rất hiếm. Vì vậy, anh được xem như là một trong những người đầu tiên đặt nền tảng cho việc phát triển nghề PR tại nước ta.

Tuy vậy, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động PR cho các doanh nghiệp, kéo theo nhu cầu về người làm PR ngày càng lớn của thị trường dẫn đến việc rất nhiều người tham gia làm PR, dù họ không có kiến thức chuyên môn. Giá trị của công việc PR bị giảm sút. Những nỗ lực, sáng tạo của những chuyên gia PR như Quách Tuấn Khanh bị đánh đồng, không được ghi nhận một cách xứng đáng. Lúc này, anh bắt đầu nghĩ đến việc phải tìm một con đường mới.

Bước ngoặc đến với Quách Tuấn Khanh khi anh làm PR cho Công ty Bảo hiểm nhân thọ Prudential. Anh được tham dự khoá học của một diễn giả chuyên nghiệp người Malaysia. “Một khoá học tổng hợp nhiều lý thuyết về sự phát triển và hoàn thiện con người. Đó là lần đầu tiên tôi học về đời sống, học về bản thân mình, về những ước mơ, những mục đích trong cuộc đời, về những cảm xúc của con người, về cách xây dựng những mối quan hệ giữa người với người, cách thể hiện ngôn ngữ cơ thể,… cả việc hát những bài hát bằng cả tấm lòng”, anh nói.

Và cũng chính từ khoá học này, Quách Tuấn Khanh bắt đầu hành trình  tìm đến với nghề diễn giả chuyên nghiệp.
Với những suy nghĩ đam mê đó, Quách Tuấn Khanh bắt đầu bỏ thời gian và công sức để tìm hiểu về nghề này, và anh nhận thấy mình thực sự bị nó chinh phục. Anh chợt nhận thấy rằng đây sẽ là công việc mà anh say mê và có thể sẽ theo đuổi đến cùng. Khát vọng trở thành một diễn giả chuyên nghiệp đầu tiên ở Việt Nam ngày càng lớn dần trong suy nghĩ của Quách Tuấn Khanh. Để khát vọng đó trở thành hiện thực, anh biết rằng mình cần phải có một quá trình rèn luyện bản thân không ngừng nghỉ.Kết thúc khoá học, Quách Tuấn Khanh bắt đầu có một cảm giác rất lạ, điều mà từ trước đến nay anh chưa bao giờ cảm nhận được. “Tâm trí tôi ngập tràn những hình ảnh của người diễn giả đó. Ông không chỉ là người nói chuyện mà còn là một diễn viên, một ca sĩ, một nghệ sĩ kịch câm… với rất nhiều chiêu thức khác nhau, đã khiến cho tôi hoàn toàn bị cuốn hút và phấn khích”.

“Đối với mọi người, một buổi nói chuyện chỉ đơn giản là nói chuyện bình thường, nhưng với tôi, đó là một lần luyện tập khả năng nói, khả năng diễn thuyết của mình. Mỗi ngày tôi gặp gỡ tiếp xúc với bao nhiêu người, thì đó là bấy nhiêu cuộc diễn thuyết như thế. Như vậy, một khối lượng luyện tập với hàng trăm cuộc diễn thuyết trong một năm  giúp tôi ngày càng tích luỹ những bài học quý giá để nâng cao tay nghề”. Quách Tuấn Khanh tâm sự. Không những thế, có buổi diễn thuyết nào ở nước ngoài, anh đều bỏ thời gian đến tham gia, để được học tập kinh nghiệm từ các diễn giả hàng đầu thế giới. Anh nói: “Dù bạn là ai thì mỗi ngày đều có 24 giờ, nhưng cách sử dụng của mỗi người là khác nhau. Tôi tận dụng từng giây, từng phút của mỗi ngày. Tôi có thể tự tin nói rằng, 24 giờ sống và làm việc của tôi bằng với một tuần sống và làm việc của những người bình thường khác”.

Mặc dù có rất nhiều ý kiến không đồng tình, thậm chí ngăn cản của gia đình và bạn bè đối với nghề diễn giả, nhưng Quách Tuấn Khanh vẫn cương quyết với sự lựa chọn của mình.“Tôi cho rằng công thức chung cho tất cả mọi việc chính là phải vững tin vào tương lai, và có một tình yêu mãnh liệt với công việc ta đang làm. Chỉ như thế mới hình thành trong bản thân một sức mạnh nội tại, vượt qua mọi rào cản khó khăn nhất”.
“Không bao giờ được sống dưới mức tiềm năng”. Đó là phương châm sống của Quách Tuấn Khanh. “Không ai có quyền nói gì về cuộc đời mình, chỉ có mình mới có thể uốn nắn nó, tạo nên nó mà thôi”. Với suy nghĩ và quyết tâm đó, anh đã từng bước vượt qua những thách thức và trở ngại để dần hoàn thiện mình hơn.

Sau gần 6 năm rèn luyện miệt mài, có thể nói Quách Tuấn Khanh đã trở thành một chuyên gia diễn giả hàng đầu của Việt Nam. Anh trở thành cộng tác viên của d’Oz International, một công ty của Singapore chuyên cung cấp diễn giả trên khắp thế giới.

Tuy vậy, anh biết rằng anh cần phải làm một cái gì đó để chính thức khẳng định và phát huy công việc của một diễn giả thực thụ. Tháng 10/2006, Quách Tuấn Khanh thành lập Trung tâm Thành Công và Hạnh Phúc (Success & Happiness Training Center – S.H.T.C). Đây là một công ty trực thuộc Power Up Group, S.H.T.C, là nền tảng thuận lợi để anh có thể phát triển nghề nghiệp của mình thông qua việc tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề, tư vấn, huấn luyện….

Được xem như là một đơn vị tiên phong trong lĩnh vực huấn luyện tinh thần tại Việt Nam, S.H.T.C chuyên tổ chức các buổi hội thảo về đề tài cuộc sống, huấn luyện dã ngoại, huấn luyện Trainer và PR chuyên nghiệp.

Sứ mệnh mà Quách Tuấn Khanh đặt ra cho S.H.T.C là “đánh thức, khơi dậy và trao niềm tin cho người học, giúp họ tự tìm ra chân lý và nhận thức về trách nhiệm phát triển bản thân”. Anh cho biết: “Chúng tôi sẽ cho bạn một mồi lửa để bạn tự thổi bùng lên nhiệt huyết và khát vọng trong cuộc sống. Phát huy tinh thần chia sẻ, tình yêu, sức mạnh nội tại, tất cả những điều này bạn sẽ được học bằng sự trải nghiệm”.

Chủ đề của các chương trình mà S.H.T.C tổ chức rất đa dạng và phong phú, từ: khởi nghiệp, làm giàu, thành công, sáng tạo và ước mơ… đến các vấn đề như: lập kế hoạch cho cuộc đời, đời sống gia đình… Các chương trình này đều hướng đến những tinh thần con người. Các chương trình do S.H.T.C tổ chức đang ngày một thu hút sự chú ý và hưởng ứng của đông đảo mọi người.

Hiện tại, S.H.T.C có một đội ngũ những diễn giả cộng tác tài năng đến từ nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, Quách Tuấn Khanh vẫn còn nhiều trăn trở. “Ở nước ta hiện nay rất hiếm những diễn giả chuyên nghiệp thực sự, cùng với sự phát triển của S.H.T.C, tôi hi vọng tương lai có nhiều hơn nữa những diễn giả Việt Nam trong các buổi diễn thuyết, không chỉ ở trong nước mà còn trên khắp thế giới”.
Hữu Thọ – Phạm Vũ



CEO trứ danh Steve Jobs

CEO trứ danh Steve Jobs




Steve Jobs có một câu nói ưa thích trích từ cầu thủ khúc côn cầu nổi tiếng: "Tôi luôn lao đến những nơi quả bóng sắp sửa đến, không phải nơi nó vừa ở đó".








1. Thiên tài máy tính


Steve Jobs được ca ngợi đã giúp toàn thế giới thay đổi định nghĩa về phương pháp tiếp cận, cách nhìn và cảm xúc đối với máy tính cá nhân. Ông cũng là một trong những người đi tiên phong phát hiện ra tiềm năng thương mại to lớn của giao diện đồ họa, ứng dụng hệ thống điều khiển chuột và click, vốn trở nên phổ biến và xuất hiện trong hầu hết máy tính để bàn ngày nay. Bốn thập kỷ lao động và cống hiến của Steve Jobs đã đem lại cho người dùng toàn cầu những sản phẩm công nghệ mang tính đột phá, giúp định hình lại ngành công nghiệp công nghệ cao. Ảnh: Corbis

2. Người bạn đồng hành đầu tiên



Người đồng hành đầu tiên của Steve Jobs là Steve Wozniak, ông gặp khi đang đi làm thêm tại công ty Hewlett-Packard (HP) thời trung học. Kết thúc trung học, Jobs đăng ký vào trường Reed College nhưng nhanh chóng bỏ ngang chỉ sau có một học kỳ. Đam mê với máy tính vẫn cháy bỏng trong ông, đưa Steve Jobs đến với thung lũng công nghệ Silicon Valley vào 1974. Tại đây, Steve Jobs vui mừng gặp lại người bạn Wozniak khi cả hai cùng tham gia một câu lạc bộ máy tính. Đến 1976, họ chung tay lập ra quả táo Apple, đặt nền móng đầu tiên cho người khổng lồ trong ngành công nghệ thế giới sau này. Ảnh: Time



3. Cuộc cách mạng trong một chiếc hộp



Đây là thế hệ máy tính Apple đầu tiên, chiếc Apple 1 được bán với giá 666,66 USD trong quầy máy tính của trung tâm thương mại Bay Area. Chiếc máy tính này chỉ bao gồm một bộ điều khiển và quyển sách hướng dẫn dài 16 trang. Để có thể sử dụng được, người dùng cần có nguồn điện, bàn phím và tất nhiên phải mua thêm cả màn hình. Ảnh: Apple


4. Chân dung một nhà doanh nhân trẻ



Lợi thế của Steve Jobs là năng khiếu kỹ thuật thiên tài đi cùng với kỹ năng bán hàng chuyên nghiệp. Tuy nhiên, tính cách luôn kiên định với những lý tưởng và sản phẩm của mình khiến Steve Jobs không ít lần xung đột với đồng nghiệp và dư luận. Từ đó, ông càng nổi tiếng là một nhà quản lý “khó chơi” và có phần dữ dội. Ảnh: Dailytech

5. Thử thách


Đến năm1983, Jobs mạnh tay chi tiền để lôi kéo Chủ tịch của hãng đồ uống Pepsi (ở giữa) để về tham gia xây dựng đế chế Apple cùng với ông và Wozniak. Tuy nhiên, mối quan hệ đồng nghiệp thân tình giữa ba bên nhanh chóng xấu đi. Không may, đó cũng là thời kỳ ngành công nghệ gặp khủng hoảng về doanh số khiến các công ty phải cân nhắc bài toán sa thải nhân công. Tại Apple, người bị sa thải lại chính là Steve Jobs, 9 năm sau ngày ông góp phần đặt viên gạch đầu tiên xây dựng hãng. Ảnh: Corbis

6. NeXT


Với Steve Jobs, việc rời khỏi Apple chỉ càng làm bùng thêm khao khát làm cuộc cách mạng ngành máy tính cá nhân thế giới. Ông vạch ra ngay dự án công ty NeXT Computer. Ngay cái tên cũng thể hiện rõ tham vọng của Steve Jobs về một thế hệ máy tính mới với những ý tưởng đột phá. Máy tính của ông được trang bị những công nghệ tiên tiến nhất thời đó như giao diện đồ họa mới nhất, cổng Ethernet được tích hợp bên trong và nhiều sản phẩm công nghệ cao khác. Máy tính của Jobs được đánh giá là quá đắt đỏ để có thể trở nên phổ biến trên thị trường. Mặc dù vậy, sản phẩm của Steve Jobs đã tạo ra những ảnh hưởng to lớn đối với các thế hệ máy tính tiếp theo. Ảnh: Corbis

7. Trở lại Apple


Sau khi mất Jobs, Apple mới thấm thía tầm quan trọng của ông khi công việc kinh doanh liên tục đi xuống. Thậm chí hồi giữa những năm 1990, Apple lâm vào thảm cảnh ngấp nghé vực phá sản. Apple biết rằng chỉ có thể đưa Steve Jobs quay trở lại mới có cơ may phục hồi. Để hợp thức hóa việc này, năm 1996, Apple tuyên bố họ mua NeXT Computer với giá 429 triệu USD. Đến năm 1998, hội đồng quản trị của Apple không cần đợi được đề nghị đến lần thứ 2, đã nhất trí đưa Steve Jobs lên làm CEO. Ảnh: Corbis

8. Công việc của Jobs



Có được Jobs, Apple cũng có thêm những công nghệ hiện đại của sản phẩm máy tính NeXT, vốn tạo tiền đề cho những thế hệ sản phẩm sau này. Những năm tiếp theo kể từ khi được nhìn nhận, Steve Jobs đã khôi phục được danh tiếng cho Apple bằn những sản phẩm lừng danh như máy tính iMac. Ngoài ra, năng khiếu kinh doanh thiên bẩm của Steve Jobs đã đưa cái tên Apple trở nên quen thuộc với mọi tín đồ công nghệ. Nhờ Jobs, Apple có được được hệ thống nhận diện thương hiệu chuyên nghiệp và hệ thống bán lẻ chỉ bán duy nhất sản phẩm của Apple. Ảnh: Corbis

9. Hoạt hình



Trong những năm rời xa Apple, Steve Jobs cũng đã kịp mua lại và phát triển một xương chế tạo phim hoạt hình mang tên Pixar. Dưới bàn tay của Steve Jobs, Pixar nhanh chóng trở nên nổi tiếng ngay từ bộ phim đầu tiên của ông, Câu chuyện Đồ chơi (Toy Story), ra mắt năm 1995. Bộ phim này mang về 360 triệu USD và lập tức đưa Pixar lên hạng sao trong số những nhà làm phim của Hollywood. Kể từ đó, Pixar được đà tiến lên với những bộ phim thành công nối tiếp nhau ra đời như Đi tìm Nemo (Finding Nemo), Vương quốc Xe hơi (Cars), Wall-E, và gần đây nhất là Vút bay (Up). Năm 2006, hãng Disney nhận thấy không thể ngồi yên trước sức cạnh tranh của Pixar, quyết định mua lại hãng hoạt hình. Vụ mua bán không những đem lại cho Steve Jobs 7,4 tỷ USD, mà còn đưa ông vào hội đồng quản trị Disney và sở hữu hơn một nửa cổ phiếu của Pixar. Ảnh: Corbis

10. Rock and Roll



Năm 2001, Jobs giới thiệu ra công chúng chiếc máy nghe nhạc iPod. Cho dù sản phẩm này không sử dụng những công nghệ quá tiên tiến so với các hãng khác, iPod vẫn ngay lập tức gây được tiếng vang lớn. Người hâm mộ iPod yêu chiếc máy nghe nhạc ở thiết kế đột phá và tính thân thiện, dễ sử dụng. Không những thế, iPod còn được thiết kế để kết nối với iTunes, kho âm nhạc trực tuyến khổng lồ của Apple. Cách làm này của Apple đã gây ảnh hưởng và thay đổi bộ mặt của ngành âm nhạc toàn cầu. Sản phẩm này thành công đến nỗi năm 2007, khảo sát của Bloomberg cho thấy iPod chiếm tới 72,7% thị phần sản phẩm nghe nhạc tại Mỹ. Tính đến tháng 9/2009, đã có tổng cộng 220 triệu chiếc iPod được bán ra trên toàn cầu. Ảnh: Reuters

11. iPhone




Đến năm 2007, sau khi thống lĩnh và thay đổi cục diện của thị trường máy tính xách tay, ngành công nghiệp âm nhạc toàn cầu, Apple chính thức lấn sân sang ngành truyền thông đa phương tiện. Đây là năm ông công bố chiếc iPhone, sau khi cố tình để rò rỉ thông tin một thời gian dài trước đó. Vào tháng 6/2007, iPhone ra đời và lập tức gây sốt khi 6 triệu chiếc được mua hết veo chỉ sau một thời gian ngắn. Sức nóng dành cho sản phẩm này vẫn không hề giảm trong nhiều năm tiếp theo. Ảnh: AFP

12. Sản phẩm mới nhất



Tháng 1/2010, Jobs chính thức tuyên bố Apple sắp sửa cho ra mắt dòng máy tính bảng mới. Với chức năng và giao diện gần giống chiếc iPhone, sản phẩm iPad có màn hình rộng hơn và người dùng có thể dùng nó như một quyển sách điện tử, máy chơi games và màn hình xem phim tiện dụng. Hôm nay sẽ là ngày iPad chính thức ra mắt người dùng tại Mỹ nhưng sức nóng của sản phẩm đã tăng lên từng ngày ngày kể từ khi được công bố. Nhiều khách hàng xếp hàng chầu chực sẵn tại các điểm bán từ vài ngày trước để ít tiếng đồng hồ nữa, sẽ trở thành một trong những người đầu tiên sở hữu sản phẩm mới nhất của Apple


Những tấm gương thành công trong cuộc sống - Dale Carnegie (1)

Somerset Maugham

Theo bạn, kịch nào có giá trị nhất từ trước? Có lần, các nhà phê bình nổi danh về kịch đã bầu kín ở Nữu Ước để lựa lấy mười kịch có giá trị nhất thì kịch Hamlet đứng đầu sổ. Kịch đó viết cách đây trên ba trăm năm. Rồi kịch thứ nhì không phải là kịch Macbeth, hoặc kịch Vua Lear, kịch Nhà buôn ở Venice, mà là kịch Mưa. Vâng, kịch Mưa, một kịch diễn sự chiến đấu dông tố giữa Tình dục và Tôn giáo, một kịch soạn theo một chuyện ngắn của Somerset Maugham.

Kịch Mưa đã đem lại cho Maugham bốn chục ngàn Anh Kim, mà ông không mất chút công nào để soạn nó.

Việc xảy ra như vầy: Ông viết môt truyện ngắn nhan đề là Sadie Thomson. Viết xong, ông chẳng nhớ gì tới nó nữa. Nhưng một đêm John Colton lại chơi nhà ông, và Colton muốn có cái gì đọc để vỗ giấc ngủ, Maugham bèn đưa cho Colton ấn cảo truyện đó.

Colton say mê đọc, kích thích lạ lùng. Ông nhẩy xuống sàn đi đi lại lại, tưởng tượng ra như thấy truyện đã diễn thành kịch, một kịch sau này sẽ bất hủ.

Sáng hôm sau, ông chạy tìm Somerset Maugham, bảo:"Truyện này viết thành một kịch hay được. Tôi đã nghĩ về nó suốt đêm hôm qua. Báo đời! Biểu cho người ta đọc cái gì để dễ ngủ, mà làm cho người ta không chợp mắt lấy được một phút!".

Nhưng Maugham vẫn thản nhiên đáp:

- Viết thành kịch ư? Một kịch bệnh hoạn thì được. Rồi đem diễn được trong sáu tuần lễ. Không đáng để ý tới. Thôi đi.

Và chính kịch mà ông không thèm để ý tới đó đã đem lại cho ông bốn chục ngàn Anh Kim.

Kịch viết xong, nhiều gánh hát từ chối. Họ tin chắc rằng sẽ thất bại. Chỉ có Sam Harris chịu nhận. Ông sở dĩ nhận là có ý cho một đào trẻ tên là Jeanne Eagels đóng. Nhưng người quản lý gánh hát không chịu, muốn lựa một đ ào có danh hơn.

Rốt cuộc, Jeanne Eagels cũng được đóng và nàng thành công. Kịch diễn bốn năm rưỡi một lần, lần nào cũng có nàng và lần nào rạp cũng đông nghẹt.

Somerset Maugham đã viết nhiều tiểu thuyết có danh như Of Human Bondage, The Moon and Six-pence và The Painted Veil, khoảng hai chục kịch hay. Nhưng chính kịch trứ danh nhất của ông thì, ông lại không viết.

Bây giờ nhiều người coi ông là một thiên tài, nhưng hồi mới bắt đầu viết, ông thất bại luôn mười một năm. Nhà văn đã kiếm được hai trăm ngàn Anh kim đó, trong mười một năm ấy chỉ kiếm được mỗi một Anh kim.

Nhiều lúc đói, ông muốn xin một chân trong tòa soạn một nhà báo nào đó để có một số tiền nhất định mỗi tháng, nhưng không ai nhận ông cả. Ông bảo: "Kiếm không được việc tôi đành phải tiếp tục viết như vậy". Lúc đó ông đã đậu bằng cấp y khoa bác sĩ, họ thôi thúc ông bỏ truyện ngắn, truyện dài đi mà làm thuốc ra toa cho tấm thân đỡ cơ cực. Nhưng không có gì làm ông thay đổi quyết định sắt đá của ông là lưu danh lại trên những trang Văn học sử Anh.

Bod Ripley, nổi danh về cuốn Believe it or not, có lần bảo tôi:"Một người có thể làm việc như mọi không ai biết đến, trong mười năm rồi nổi danh trong mười phút". Lời đúng với Ripley và cả với Maugham.

Lần đầu tiên Somerset Maugham được nổi danh là do một ngẫu nhiên. Một kịch nào đó thất bại và ông bầu một gánh hát kiếm một kịch bản khác để thay. Chủ ý ông chưa muốn kiếm một kịch được hoan nghênh, chỉ muốn kiếm một kịch cũ cũ nào đó diễn đỡ, đợi ngày gặp được một kịch có chân giá trị. Vậy ông tìm bậy trong tủ của ông, xem ra may được một kịch nào chăng, và rút ra một kịch của Somerset Maugham, nhan đề là Lady Frederick. Kịch đó ông nhét vào tủ đã mấy năm rồi, nhớ đã đọc qua, và biết là chẳng hay ho gì, nhưng diễn tạm được ít tuần. Ông bèn cho diễn. Và phép mầu đã hiện ra. Kịch Lady Frederick thành công rực rỡ. Khắp thành phố London, ai cũng nói tới. Từ hồi Oscar Wilde tới nay, chưa có kịch gia nào làm cho người Anh vui thích như vậy.

Tức thì hết thẩy các ông bầu hát ở Luân Đôn tranh nhau xin kịch của Somerset Maugham. Ông lục lọi các vở kịch cũ trong tủ ra, và chỉ trong vài tuần, ba kịch của ông được đem diễn trong những rạp lớn.

Tiền tác giả chảy vô như suối. Các nhà xuất bản lăn xả vô xin ký giao kèo với vị thiên tài mới xuất hiện đó. Giấy mời của các hội bay tới như mưa, và sau mười năm sống trong bóng tối, Somerset Maugham bỗng được hoan nghênh trong các phòng khách sang trọng nhất.

Ông nói với tôi rằng không khi nào ông làm việc quá một giờ trưa, vì buổi chiều, óc ông như đặc lại. Ông viết dưới một mái hiên trên từng thượng biệt thự của ông ở Nice. Luôn luôn ông hút ống điếu và đọc sách triết lý khoảng một giờ rồi mới bắt đầu viết. Khi quân Đức chiếm nước Pháp, ông qua Nam Caroline viết trong một đồn điền.

Những tấm gương thành công trong cuộc sống - Dale Carnegie (2)

 Glenn L. Martin



Đêm rằm tháng giêng năm 1886, bà Minta Martin ở Macksbung nằm mộng thấy ngồi trên một cái máy, bay trên không trung, lượn trên châu thành bà ở, đưa tay ra vẫy vẫy bạn bè đứng dưới đường và buồn rầu vì họ không thể bay như mình được.
Việc đó xảy ra mười bảy năm trước khi hai anh em Wright bay thử lần đầu.
Gặp lúc khác thì chắc bà không để ý gì tới giấc mộng đó cả, nhưng hồi ấy bà đương có mang và đã được nghe nhiều người đoán điềm giải mộng nên bốn mươi tám giờ sau, khi sanh con trai là Glenn Martin thì bà tin rằng con bà sau này sẽ bay được trong không trung như bà.
Điều lạ lùng nhất trong truyện đó là con bà sau tập bay thật, sau hai anh em Wright một chút và là người thứ ba ở Châu Mỹ lái một máy bay tự mình sáng chế ra.
Bây giờ Martin là người đứng đầu trong kỹ nghệ hàng không mà ông đã làm cho phát triển một cách phi thường. Xưởng chế tạo của ông, tức công ty Glenn L. Martin, ở gần Baltimore xứ Maryland, là một trong ba xưởng chế tạo phi cơ lớn nhất thế giới. Ông đã đóng những chiếc Marauder cho lục quân, Mariner cho hải quân và Baltimore cho nước Anh. Ông là nhà chế tạo phi cơ danh tiếng nhất thế giới. Mà nếu thân mẫu ông không nằm mộng thấy mình bay lên trên không trung thì có lẽ ông đã không lựa nghề đó.
Bạn hỏi tôi:
- Tại sao vậy?
Là vì suốt thời thơ ấu của ông, bà cụ thường kể cho ông nghe giấc mộng ấy, gây cho ông một mục đích cao vời, một quyết tin, một tham vọng: chinh phục được thế giới của bão tố. Mà ở trên những cánh đồng cỏ miền Kansas, nơi tuổi thơ ông trôi qua, luôn luôn có những trận bão tố dữ dội cần phải chế ngự.
Trong một cuộc phỏng vấn, ông kể cho nghe rằng những trận gió ở Kansas đã đóng một vai trò chủ yếu trong thời thiếu niên của ông. Hồi sáu tuổi, ông lấy một chiếc mền cột vào chiếc xe nhỏ sơn đỏ, rồi cho gió thổi xe chạy trên đường phố như thuyền buồm chạy trên sông.
Sau ông đi giày đạp tuyết, tay cầm một chiếc buồm tự ông cắt lấy rồi để gió đẩy chạy trên băng. Ông cũng dùng cách đó để khỏi phải đạp xe máy. Ông bảo rằng thời đó hễ gặp một khu rộng nào có thể dùng buồm để di chuyển được là ông cũng mê mẩn, như bị thôi miên.
Tôi ngờ rằng cái thời xa xăm ấy, thời bà cụ Martin còn ở Kansas thì cụ chưa hề được nghe chữ tâm nhưng cụ đã dùng một phương pháp tâm lý mà các tâm lý gia ngày nay chắc chắn đều công nhận là hiệu quả, để nung lòng can đảm và đức tự tin của con trai. Khi con khôn lớn, làm được một việc gì thì cụ để cho cậu tự lãnh lấy mọi trách nhiệm. Một lần cậu muốn có một đôi giày trượt tuyết mà không có tiền mua, cụ bảo cậu lại tiệm thợ rèn mà mượn đồ, xin sắt, tự rèn lấy một đôi, cậu vâng lời làm liền. Muốn có một chiếc diều, cậu cũng phải làm lấy. Và đọc một tạp chí, cậu đã nảy ra ý chế ra một kiểu diều rất mới có hai tầng cánh. Cậu ráp nó trong nhà bếp và khi thấy nó bay thẳng hơn, cao hơn tất cả những diều khác ở Kansas, cậu thích thú, hăng hái vô cùng.
Cậu hãnh diện về sự thành công đó đến nỗi tự tổ chức cuộc thi diều và cậu thắng. Thế là các trẻ em trong châu thành đều năn nỉ cậu làm cho một chiếc diều như của cậu.
Cậu bé Glenn Luther Martin - mà năm chục năm sau chế tạo được chiếc phi cơ lớn nhất thế giới, chiếc Mars. Hồi đó lập một xưởng làm diều trong nhà bếp của bà cụ. Mỗi đ êm cậu làm được ba chiếc diều và bán hai cắc rưỡi một chiếc: trả mặt một cắc rưỡi cho trả góp làm ba tuần, mỗi tuần năm xu.
Lòng tự tin của cậu còn tăng lên nữa khi cậu thấy mình có khiếu về máy móc và có thể làm được nhiều đồ mà các trẻ khác làm không được.
Ba chục năm sau, khi ông đã chế tạo những phi cơ đánh đắm được nhiều chiến hạm, một ký giả ở Cleveland lại phỏng vấn ông về những bước đầu trong nghề, ông đáp:
- Má tôi đã ảnh hưởng nhiều đến tôi. Người đã khuyến khích tôi làm diều trong nhà bếp. Người đã tập cho tôi đức tự tin.
Khi những chiếc xe hơi đầu tiên xuất hiện ở Kansas, Martin chỉ ước ao mỗi một điều là được lái loại xe kỳ dị chạy không cần ngựa đó. Ông xin được vào làm trong một hãng sửa xe. Sau này, khi gia đình ông dời qua Santa AnaCalifornia, ông mở một hãng sửa xe, xin được làm đại lý các hãng xe Ford và Maxwell. Hồi đó, ông hai chục tuổi, làm nghề bán và sửa xe ấy mà kiếm được từ ba đến bốn ngàn Mỹ kim mỗi năm.
Rồi một việc xảy ra làm cho cuộc đời ông thay đổi hẳn.
Một buổi sáng năm 1905, một tin trong báo làm ông sửng sốt rồi như bị thôi miên: hai anh em Wright ở Kitti Hawk, miền Bắc Caroline, đã bay được trong một trăm giây. Tin đó kích thích ông vô cùng, ông nhận ra rằng thứ máy bay đó đương rầm rộ mở một kỷ nguyên mới.
Vậy ra hai anh em Wright đã bay được trong một trăm giây. Ông lấy đồng hồ ra, đếm một trăm giây, rồi tự nhủ: "Có người bay được một trăm giây thì sau này sẽ có người chế tạo được những máy bay bay được một giờ, có lẽ năm giờ.... biết đâu chừng?"
Vài tháng sau ông lại bị kích thích một lần nữa: ông thấy một tạp chí kỹ thuật in hình phi cơ của hai anh em Wright. Nghiên cứu tỉ mỉ hình đó xong, ông thưa với bà cụ:
- Xét cho kỹ thì chẳng qua máy bay chỉ là một chiếc diều lớn có động cơ. Con làm diều được, thì cũng chế tạo một chiếc máy bay như vậy được, để con làm rồi lắp ráp cho má xem.
Bà cụ nhớ lại giấc mộng hồi xưa, đáp:
- Con có lý, con có lý, con tất làm được.
Hồi đó ông hai mươi tuổi, ham bay tới nỗi muốn bỏ hết thời giờ vào việc chế tạo máy bay. Nhưng không được như sở nguyện vì còn phải kiếm ăn nữa, cho nên ban ngày đ ành trông nom hãng xe hơi, còn ban đ êm, ồ ban đ êm, thì tha hồ muốn làm gì thì làm. Mới đầu ông đóng một kiểu diều lớn chở nổi một người, không có động cơ, rồi ông tập bay thử. Sau nhiều tháng tập bay như vậy, ông nóng lòng muốn chế tạo một phi cơ thực, có động cơ đ àng hoàng. Nhưng phải làm ra sao bây giờ? Ông mù tịt hay gần như mù tịt về khoa khí động học, và chưa được học tập về kỹ thuật bao giờ.
Mặc dầu vậy ông cũng cố đóng một chiếc máy bay, không có bản đồ vẽ trước, mà cũng chẳng được ai giúp đỡ, chỉ bảo. Ông hăng hái lắm, lại một thư viện công cộng, đọc sách về kỹ thuật xây cầu vì ông nghĩ rằng biết cách xây cầu thì sẽ tìm được cách đóng một chiếc phi cơ nhẹ chở được một người và một động cơ.
Năm 1908 ông chế tạo xong chiếc phi cơ thứ nhất trong một nhà thờ bỏ hoang ở Santa Ana, xứ Californie mà ông phải mướn mỗi tháng mười hai Mỹ kim. Thân phụ ông mắc cỡ vì có đứa con điên điên khùng khùng bán xe hơi kiếm được rất nhiều tiền thì không chịu lại bỏ phí thì giờ chế tạo những máy để bay. Thanh niên trong tỉnh thấy ông bỏ ăn, bỏ ngủ, không biết là ngày lễ, ngày nghỉ là gì, cặm cụi hết tháng hết năm, cũng chế giễu ông nữa. Một bà già nọ lại thuyết thân mẫu ông để cụ bảo ông bỏ cái ý của ma quỷ đó đi.
- Nếu thượng đế muốn cho loài người bay được thì đã cho chúng ta cặp cánh rồi, phải không cụ?
Chỉ mỗi có một người khuyến khích ông là thân mẫu ông. Cụ nhớ lại giấc mộng của cụ. Cụ tin chắc con cụ sẽ bay được. Mỗi đ êm cụ cặm cụi với con trong ngôi nhà thờ hoang, cầm chiếc đ èn dầu chiếu sáng cho con làm. Kẻ tò mò ngó qua cửa sổ xem thằng khùng đó làm cái trò gì. Ông bực mình sơn các cửa kính không cho ai nhìn qua được nữa. Rồi ông khóa cửa lại. Nhưng họ vẫn tới để cười, chế ông. Ông lại phải mướn người coi cửa để ngăn họ đừng tới gần.
Luôn mười ba tháng như vậy, hai mẹ con ông làm việc đ êm này qua đ êm khác, cả trong đ êm lễ Giáng Sinh, cả trong đ êm Nguyên Đán. Nhưng xin bạn đừng phàn nàn cho họ. Công việc đó không phải là một công việc thường: nó là một sự đam mê. Không phải là một chuyện đóng một phi cơ mà là chuyện chinh phục thế giới của gió bão, cho một giấc mộng thành sự thật. Chắc chắn hồi ấy ông sống vui thích hơn một ông vua hoặc một nhà triệu phú rất nhều. Có lần ông bảo tôi rằng mười ba tháng đó là quãng đời đẹp nhất của ông.
Ông lắp một động cơ hai mã lực vào phi cơ của ông. Muốn cho nhẹ, ông thay cái vỏ gang bằng một cái vỏ đồng. Ông phải đẽo sáu chiếc chong chóng mới được một cái vừa ý.
Sau cùng phi cơ đóng xong. Phải phá một vài mảng tường của nhà thờ rồi ngày cuối tháng bảy năm 1909, vào nửa đ êm, Glenn Martin và hai người phụ tá, đẩy máy bay ra ngoài, cho ngựa kéo nó lên đường cái hơn năm cây số nữa, tới một cánh đồng để sáng sớm hôm sau bay thử. Sở dĩ phải kéo ban đ êm như vậy là để cho ngựa không thấy hình thù kỳ dị của nó mà hoảng hốt.
Tinh sương ngày mùng một tháng tám năm 1909, Glenn Martin leo lên phi cơ, mở máy, động cơ nổ vang trời. Ông lên số, máy ông rung chuyển mạnh, đâm xiên đâm xẹo, rồi thì, ôi phép mầu! Nó cất cánh được. Em nhỏ Glenn Martin xưa làm diều trong nhà bếp ở Kansas nay đã bay được. Phút đó là phút quan trọng nhất đời ông.
Sau ông đóng những chiếc China Clipper, tức những phi cơ đầu tiên đã vượt Thái Bình Dương và đóng rất nhiều phi cơ chiến đấu.
Đời ông là một tấm gương sáng cho ta thấy năng lực phi thường của một ý chí chuyên chú vào một mục đích độc nhất. Mới rồi ông nói với tôi:
- Nếu ông lựa một con đường và không khi nào quên mục đích của ông thì dù con đường khó khăn, lởm chởm đến đâu, rốt cuộc thế nào ông cũng tới được một nơi nào đó.


Những tấm gương thành công trong cuộc sống – Dale Carnegie (3)

 S. Parkes Cadman


Hồi trước, ở Nữu Ước, lúc nào rảnh, tôi thường qua sông East River để phiếm đ àm vài giờ thú vị với S Parkes Cadman ở Brooklyn. Ông là một trong những người nổi danh nhất ở Mỹ. Ông giảng đạo trong nhiều năm và là một người tiền phong về phát thanh.
Nếu bạn cho rằng bạn làm không kịp thở thì xin bạn nghe tôi kể những công việc thường ngày của ông.
Bảy giờ sáng ông dậy, trả lời hai chục hoặc ba chục bức thư, viết một ngàn rưỡi chữ cho tờ báo của ông, soạn một bài thuyết giáo, hoặc viết tiếp một cuốn sách, đi thăm năm hay sáu tín đồ, trở về nhà, đọc trọn một cuốn sách mới xuất bản, vậy là xong việc trong ngày đó, và đi ngủ vào khoảng hai giờ sáng.
Theo chương trình đó trong bốn mươi tám giờ thì tôi sẽ tối tăm mặt mũi lại, vậy mà ông giữ đúng được hàng tháng, hàng năm! Bạn thử tưởng tượng xem! Có lần tôi hỏi ông làm cách nào. Ông đáp là dễ lắm, chỉ việc dự tính trước công việc.
Ông bảo không đọc thư cho thư ký đánh máy mà đọc trước một máy ghi âm, như vậy mỗi ngày tiết kiệm được một giờ. Ông lại nói chính Gladstone đã cho ông một bài học quý giá về cách làm việc. Khi điều khiển chính sự nước Anh, Gladstone kê bốn cái bàn trong phòng làm việc: một bàn cho các công việc văn học, một bàn cho thư từ, một bàn cho các việc chính trị và một bàn cho những việc nghiên cứu riêng. Gladstone nghĩ rằng thay đổi công việc thì làm việc được nhiều hơn, nên làm ở bàn này một lúc rồi qua bàn khác. Ông Cadman cũng theo đúng vậy, thay đổi công việc luôn và theo ông thì nhờ vậy óc ông được minh mẫn.
Ông thay đổi cả sách đọc. Nếu bạn tưởng rằng học giả Cadman chỉ đọc những sách về thần học, thì bạn lầm lớn. Ông cho rằng phải đổi sách đọc cũng như đổi món ăn. Vì vậy mỗi tuần ông đọc hai ba cuốn tiểu thuyết trinh thám. Ông thích Sherlock Holmes và cho truyện The hound of the Baskervilles là truyện trinh thám hay nhất từ trước tới nay.
Ngày tôi lại thăm ông, tôi thấy bốn cuốn sách trên bàn. Một cuốn giảng cách lựa thức ăn hàng ngày của bác sĩ Hay; một cuốn nhan đề là The Romance of Labrador (loại tiểu thuyết phiêu lưu), một cuốn hồi ký về triều đình vua Louis XIV, và một truyện trinh thám mới xuất bản.
Theo tôi cái điều lạ lùng nhất trong con người lạ lùng đó là ông làm phu trong mỏ than ở quê ông, ông mới mười một tuổi, và trong mười năm đằng đẳng ông tiếp tục làm dưới mỏ tám giờ mỗi ngày để nuôi một bầy em dại.
Bấy giờ ai mà chẳng nghĩ rằng ông không làm sao thành người có học được. Vậy mà sau này ông thành một người học rộng nhất châu Mỹ. Ông bảo tôi rằng bất kỳ về ngành nào trong văn học Anh, ông cũng biết được kha khá. Hồi ông làm mỏ, luôn luôn phải đợi một hoặc hai phút để người ta trút hết than trong xe ông đẩy, trong lúc đợi, ông rút trong túi ra một cuốn sách. Bạn biết rằng trong mỏ than tối tăm đến nỗi đưa bàn tay ra cũng khó thấy được, vậy mà ông ránh đọc sách nhờ ánh sáng mù mù của chiếc đèn cũ. Bạn lại nhớ mỗi lần ông được nhiều lắm là được một trăm hai mươi giây song ông vẫn mang sách theo. Ông bảo rằng thà không đem cơm theo chứ không chịu không đem sách theo.
Vì ông biết chỉ có mỗi một cách thoát được cảnh ngục trong mỏ là đọc sách. Cho nên trong mười năm làm phu mỏ, mượn hay xin được cuốn sách nào trong làng bên cạnh là ông cũng đọc, trước sau hơn một ngàn cuốn. Vậy thì sau ông thành công, có gì lạ đâu. Một người như ông thì không có sức gì làm cho phải ngừng bước mà không tiến nữa. Mười năm sau sức học của ông đã kha khá, ông thi đậu một cách vẻ vang và được học bổng vào trường đại học Richmond.
Mỗi chủ nhật ông giảng đạo cho trên năm triệu tín đồ. Ông là một nhà thuyết giáo nổi danh nhất. Khắp thế giới đều được nghe giọng ông. Một lần đề đốc Byrd đánh vô tuyến điện tín từ Litte American cho ông để tỏ nỗi vui của bọn thám hiểm khi bắt được tiếng ông ở một nơi chân trời, gần Nam Cực. Vậy mà khi Cadman mới tới châu Mỹ, ông chỉ xin được việc thuyết giáo trong một nhà thờ, cho một trăm rưỡi tín đồ ở Millbrook, tiểu bang Nữu Ước. Họ định trả ông mỗi năm một trăm hai mươi Anh kim, nhưng không đủ tiền, đành trả ông bằng heo, gà, trái bom, khoai tây. Có người tặng ông một đống rơm.


Những tấm gương thành công trong cuộc sống – Dale Carnegie (4)

Đại Tướng Montgomery


Chín trăm lẻ hai chiến tranh đã xảy ra trong hai ngàn rưỡi năm nay: vậy mà đại tướng Anh là Bernard Montgomery đã lập được một kỷ lục mới trong nghệ thuật cầm quân. Trong mười lăm tuần lễ, ông và đội quân thứ tám của ông, tức "Đội quân sông Nile" đã đánh đuổi đại tướng Rommel và đội quân Phi Châu chạy dài khoảng ba ngàn cây số ra khỏi sa mạc Phi châu.
Trước khi ra quân, đại tướng Montgomery bảo sĩ tốt rằng họ sắp chiến đấu một trận quyết liệt trong lịch sử, một trận có lẽ đổi hướng cho đại chiến thứ nhì. Mà đúng vậy. Nếu đại tướng đại bại ở El Alamein thì quân Đức đã chiếm được Ai Cập, kinh Suez và có lẽ cả những mỏ dầu ở Iran và Iraq. Rồi họ có thể băng qua Ấn Độ bắt tay quân Nhật và cắt đứt những đường tiếp tế từ Nga và Trung Hoa.
Vậy mà thiếu chút nữa đại tướng đã không được cơ hội cầm quân ở El Alamein. Nguyên do là trong đại chiến thứ nhất, tại trận Meteron ông bị thương nặng ở phổi đến nỗi người ta tưởng ông đã chết và đem đi chôn. Thân mẫu ông kể lại chuyện đó như sau:
"Bernard ngã gục và người lính chạy giấy của nó bị bắn trúng tim, chết đ è lên nó. Nó bất tỉnh, và được chở tới phòng cấp cứu. Bác sĩ bảo:"Người này chỉ sống được nửa giờ nữa thôi". Viên đại tá liền cho lệnh đ ào huyệt. Người ta đem xe cam nhông chở Bernard đi. Trên đường tới huyệt, người cầm lái thấy nó cựa cậy nhè nhẹ, bèn bảo bác sĩ: "Cái thây này chưa chết".
Vâng, nhờ trời, thây đó còn sống thật, và thây đó sau này thành một đại tướng nổi danh nhất của Anh trong đại chiến thứ nhì.
Bernard Law Montgomery đã suýt thành một nhà thuyết giáo, chứ không phải là một đại tướng. Thân phụ ông là giáo sĩ H.H. Montgomery, giám mục ở Tasmania và Bernard Montgomery muốn theo gót cha.
Nhưng năm 1899, ông mười hai tuổi, một hôm đứng trên lề đường London, nhìn đoàn quân diễn qua để sang Châu Phi đánh giặc Boer, nghe tiếng kèn, tiếng trống hùng dũng, thấy đám đông hoan hô, ông nhớ lại những chuyện phiêu lưu mà thân mẫu ông đã kể cho ông nghe hồi nhỏ rồi cuộc đời anh dũng của ông nội ông, Robert Montgomery, một vị trung tướng nổi danh trong những trận Ấn Độ. Thế là từ đó trong lòng em nhỏ mười hai tuổi ấy, dào dạt ý muốn làm một nhà cầm quân đại tài chứ không chịu làm một nhà thuyết giáo. Em cũng muốn được diễn qua thành phố London trong đám cờ bay phất phới và dân chúng hoan hô.
Thân mẫu ông kể chuyện những danh nhân Anh như Cromvell, Clive, Drake và Nelson để tiêm cho ông tinh thần mạo hiểm.
Ông được sinh trưởng trong một nhà đầy những sách bất hủ và được hấp thụ những tư tưởng cùng lý tưởng thanh cao. Một hôm thân phụ ông gọi bốn người con vào phòng sách và bảo họ rằng họ đủ trí khôn để tự lựa chọn lấy con đường đi trong đời rồi, cụ không phải dắt dẫn nữa; nhưng lựa đường nào thì lựa, họ cũng không quên được mục đích giúp nước.
Và muốn dự bị để giúp nước, Bernard Montgomery vào trường võ bị Sandhurst. Trong bốn chục năm nay ông là một quân nhân chuyên nghiệp.
Phần nhiều những thắng lợi của ông trong việc cầm quân là nhờ ông có tài dẫn đạo người. Ông tuyên bố rằng điều kiện quan trọng nhất để thắng trận là lòng người: "Không phải là xe tăng, hoặc chiến xa, chiến hạm mà thắng trận được đâu. Thắng được là nhờ con người trong những xe, những tàu đó".
Ông lại nói "Bất kỳ người nào trong bộ đội cũng phải có chí quyết chiến hiện ra ở tia sáng con mắt". Ông bảo bộ đội thứ tám của ông rằng họ là những lính thiện xạ nhất hoàn cầu, đã đầy danh vọng, chưa hề thua trận nào, và không có sức gì ngăn cản bước tiến của họ được. Ông lại tâm sự với họ, cho họ biết họ sắp phải làm những việc gì. Ông cho họ những mục tiêu rõ rệt để nhắm. Ông nói để họ vững lòng vì rằng chỉ khi nào ông có đủ khí giới, có đủ không lực để thắng thì ông mới đưa họ ra trận. Ông cho biết hai quy tắc của ông:
Quy tắc thứ nhất: đừng bao giờ để quân địch ồ ạt tấn công mình đến nỗi mình rối hàng ngũ.
Quy tắc thứ nhì: Không chắc chắn là thắng trận thì đừng bao giờ ra quân. Trong một thông điệp gửi cho quân đội, ông viết:"Nếu tôi không chắc thắng thì không khi nào tôi chiến đấu. Nếu tôi còn phải lo lắng ngại ngùng thì tôi chưa đánh vội, mà chờ cho tới khi mọi sự sẵn sàng".
(...) Kỷ luật của ông rất nghiêm. Một lần, trong một hội nghị quân sự, ông bảo: "Tôi không muốn các ông hút thuốc hoặc ho. Vậy các ông không được hút thuốc ở đây. Ngay bây giờ các ông có thể ho trong hai phút, rồi thì ngừng ho trong hai mươi phút cho tới khi tôi lại để các ông ho trong sáu mươi giây nữa".
Đối với kẻ địch, ông không có tính ghét cá nhân. Ông thường treo hình Rommel trên đầu gường ông và nói rằng muốn được gặp Rommel trước khi chiến đấu. Tại sao? Tại ông nghĩ nếu được nói chuyện với một người mình sắp tấn công, thì dễ đoán được người đó sẽ dùng chiến thuật nào.
Khi bắt sống được tướng Von Thoma, cánh tay mặt của Rommel, ông mời Von Thoma lại dùng cơm tối với ông. Ông vẽ phác chiến trường trên khăn phủ bàn và chỉ cho Von Thoma thấy tại sao Rommel không thể thắng được.
Khi ông chỉ huy quân đội thứ mười hai, trên tường phòng giấy của ông có treo một dấu hiệu ý nghĩa là: "Đã sẵn sàng trăm phần trăm chưa? Khí lực có sung không? Sáng dậy có ca hát vui vẻ không?"
Sự thật thì đại tướng Montgomery không bao giờ thức dậy mà ca hát vui vẻ, hoặc nói năng một tiếng gì hết. Người ta đánh thức ông và một giờ sau ông mới bước ra khỏi giường. Sáu giờ sáng người ta đánh thức ông, ông uống một ly cà phê rồi nằm thêm một giờ nữa để suy nghĩ, tính toán. Những chi tiết lặt vặt, ông để người khác giải quyết, ông tổ chức công việc hàng ngày để không lúc nào phải vội vàng. Ngày mai ra quân thì hôm nay ông vẫn ung dung. Kế hoạch tấn công đã định trước rồi. Ông bảo có thể thắng trận và phải thắng trận từ khi tiếng súng đầu tiên nổ, thắng bằng cách tính kỹ kế hoạch từ trước.
Khi trận đã bắt đầu khai diễn thì ông nghỉ ngơi. Ông lên giường nghỉ một giờ trước khi pháo binh của ông tấn công Rommel ở El Alamein. Bốn giờ rưỡi sau, hồi một giờ rưỡi khuya, vị phó quan của ông đánh thức ông để phúc trình tình hình mặt trận. Ông nghe, ra lệnh xong rồi tắt đ èn, lại ngủ nữa. Sở dĩ ông tự tin ghê gớm như vậy là nhờ ông đã tính toán kỹ lưỡng, nắm được ưu thế trên không và sĩ tốt của ông thiện chiến mà khí giới thì đầy đủ. Đại tướng lấy lời huấn hỗ dưới đây của thân phụ ông làm phương châm: "Con sinh trong một vọng tộc. Vọng tộc không phải chỉ có nghĩa là bề ngoài sang trọng mà còn có nghĩa là tâm hồn thanh cao, nhã nhặn. Phải ghét những cái gì nhục nhã, ti tiện và dơ bẩn".


Những tấm gương thành công trong cuộc sống – Dale Carnegie (5)

John D. Rockefeller


John D. Rockefeller đã làm được ba việc hơi khác thường trong đời ông.
Việc thứ nhất là đã gây được một gia tài có lẽ lớn nhất trong lịch sử. Khi ông bước vào đời, ông phải đi đ ào khoai tây dưới ánh nắng gay gắt để kiếm được mỗi giờ bố xu. Hồi mà khắp Hoa Kỳ không có tới sáu nhà triệu phú thì John Rokefeller đã gây nổi một gia tài khoảng một hai tỷ Mỹ kim.
Việc thứ nhì là John D. Rockefeller giúp cho mọi cơ quan một số tiền lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Ông đã giúp sáu triệu Mỹ kim, tính ra từ khi đức Chúa Ki Tô ra đời đến nay, cứ mỗi phút ông phân phát sáu cắc rưỡi, hoặc từ khi Moise dắt dân Israel qua Hồng Hải đến nay luôn ba ngàn năm, cứ mỗi ngày ông phân phát sáu trăm Mỹ kim.
Vậy mà thiếu nữ ông mê lần đầu tiên lại chê ông. Tại sao? Tại bà mẹ cô ta bảo không khi nào chịu gả con cho một anh chàng không có tương lai.
Việc thứ ba cũng hơi đặc biệt nữa là ông sống chín mươi bảy tuổi. Ông là một trong những người bị tất cả Châu Mỹ ghét nhất. Ông nhận được hàng ngàn bức thư đe dọa ông. Suốt ngày đêm phải có lính hộ vệ ông, khí giới đầy đủ. Công việc chỉnh lý và điều khiển vô số xí nghiệp của ông làm thần kinh và cơ thể ông căng thẳng ghê gớm mà ông chịu nổi.
Harriman, nhà chuyên môn xây đường xe lửa, làm việc mệt quá, chết hồi sáu mươi mốt tuổi.
Woolworth, người sáng lập những tiệm bán hàng giá độc nhất ở khắp nước, chết hồi sáu mươi tám tuổi.
John D. Rockefeller gây được một gia tài gấp mấy lần gia tài của Harriman, Woolworth, Duke hợp lại. Mà xin bạn nhớ rằng một triệu người chỉ có ba người thọ được chín mươi bảy tuổi. Và trăm triệu người không chắc có được một người sống tới tuổi đó mà không phải dùng răng giả: John Rockefeller tới chín mươi bảy tuổi vẫn còn đủ răng!
Bí quyết sống lâu của ông ở đâu? Chắc chắn là do di truyền, nhưng cũng nhờ bản tính ông điềm tỉnh nữa. Không bao giờ người ta thấy ông nóng nảy, cũng không bao giờ ông vội vàng.
Khi ông làm Giám Đốc công ty Standard Oil, ông kê một chiếc đi-văng trong phòng giấy ở Broadway, và muốn gì thì gì, mỗi bữa trưa ông cũng đánh một giấc nửa giờ. Ông giữ thói quen mỗi ngày ngủ năm giấc ngắn cho tới khi mất.
Hồi năm hai mươi lăm tuổi ông mới đau lần đầu. Thật là một tin mừng và rất quan trọng đối với y học vì khi khỏi bệnh, ông tặng cả triệu Mỹ kim vào công việc nghiên cứu y học. Nhờ vậy mà ngày nay Viện Rockefeller mỗi tháng tiêu được khoảng một triệu Mỹ kim vào chiến dịch diệt bệnh ở khắp thế giới.
Năm 1923 tôi đương ở Trung Hoa thì bệnh thời khi hoành hành ghê gớm ở đó, và ở giữa cảnh nghèo nàn và nggu dốt của người Trung Hoa, tôi có thể lại Bắc Binh tiêm thuốc ngừa bệnh ở Viện Rockefeller. Trước ngày đó tôi không thấy được công ông giúp hạng người đau khổ ở châu Á và những nơi hẻo lánh nhất thế giới. Viện Rockefeller đã rán diệt loài sán. Hiện nay Viện đương tấn công bệnh rét rừng và các y sĩ của viện đã tìm thấy thuốc trừ một bệnh sốt rét ghê gớm, bệnh hoàng ngược.
Nhưng con người giàu nhất thế giới đó xây dựng sự nghiệp khổng lồ cách nào?
Ngay từ hồi nhỏ ông đã có tư cách tỏ rằng sau này sẽ thành công. Ông là con một y sĩ lang thang, thường đi nơi này nơi khác, để mẹ con ông ở nhà, trong một trại ruộng tại Moravia, gần hồ Owasco, giữa một xứ của dân da đỏ. Một hôm John thấy một con gà mái rừng đi tìm chỗ yên tĩnh để làm ổ. Mẹ ông bảo ông đi kiếm ổ gà đó rồi bắt con gà đem về trại nuôi. Ông mất hai ngày mà không có kết quả. Nhưng, đúng như lời một người viết tiểu sử ông chép lại chuyện đó, ông có cái "Thiên tài kiên tâm","Một sức kiên tâm tàn nhẫn, không gì lay chuyển được". Ông không chịu thua, tiếp tục rình con gà, theo dõi nó hoài và hai ngày sau, ông bắt được cả mẹ lẫn con về trại. Lần nuôi gà đó là công việc làm ăn đầu tiên của ông. Ông bán được tiền, bỏ vào một chiếc chén rạn. Để kỷ niệm bước đầu đó, sau này, trong cái trại nổi tiếng rộng bốn ngàn mẫu của ông ở Pocantico Hills, luôn luôn ông nuôi một bầy gà mái tây cho tới khi ông chết.
Đi học ông cũng siêng năng nhưng không có nhiều kết quả. Ông chỉ thích môn toán. Sau này ông bảo:
-Tôi chỉ là một người thích những con số. Ông tập tìm hiểu nghĩa của các số đi. Nó sẽ cho ông biết nhiều sự thực cay đắng mà thấy rõ được tương lai.
Ông được mười một tuổi khi thân mẫu ông ở nhà một mình, phải chống cự với cảnh cơ hàn để nuôi năm người con. Ông phải làm mướn cho một chủ trại láng giềng và ki cóp tiền công cho tới khi trong cái chén rạn của ông có được năm mươi lăm Mỹ kim. Lúc đó ông đem trọn số tiền cho chủ vay, lời bảy phân, và ông thấy rằng số vốn đó mỗi năm đem lại cho ông một số tiền bằng tiền công mười ngày làm việc mệt đừ.
Ông nói:
-Thế là tôi giải quyết được vấn đề. Tôi quyết định ngay là sẽ bắt tiền bạc làm nô lệ cho tôi, chứ không chịu làm nô lệ cho tiền bạc nữa.
Vài năm sau, John D. Rockefeller vào làm thư ký trong một tiệm bán buôn đồ tạp hoá ở Cleveland. Ông làm phụ về kế toán rồi lên làm sếp kế toán. Chủ không chịu tăng lương, ông xin thôi, cùng với hai bạn thân, ra mở tiệm. Trong công việc làm ăn này, ông chỉ trông nom sổ sách. Công việc phát triển, nhưng chàng thanh niên Rockefelle tiếp tục sống quá giản dị: Chàng để dành vốn. Kế đó, ở Clevelanl người ta ùa nhau đi kiếm dầu lửa ông cũng theo gót người ta đi kiếm dầu. Trái hẳn với điều nhiều người tưởng, không phải dầu lửa làm cho Rockefeller giàu có: Rockefeller là cái máy làm ra tiền, bất kỳ ở đâu cũng làm giàu được, dù là bán tạp hoá hay bán dầu lửa. Nhưng dầu lửa mở cho ông những thị trường rộng hơn. Chỉ trong vài năm, anh chàng bán tạp hóa tư bản đó (lúc ấy vốn của ông đã quan trọng), bỏ việc kế toán của tiệm để đảm nhiệm công việc kế toán trong nhà máy lọc dầu. Xí nghiệp phát triển, số lời tăng lên, nhưng luôn luôn ông đập lời vào vốn. Ký hiệu của Rockefeller là cục tuyết, càng lăn trên tuyết thì càng lớn lên. Lần đầu ông nuốt hết những hãng lọc dầu cạnh tranh với ông. Khi ông về Nữu Ước, ông đã tỷ phú mà ráng làm không cho ai biết mình. Những tỷ phú khác thì yến tiệc lưu liên, sắm du thuyền, lập chuồng nuôi ngựa đua, cất lâu đ ài ở Ecosse, còn ông thì sống như một tiểu tư sản lương thiện trong một gia đình nhũn nhặn, kiểu mẫu. Thói quen của ông sau này có thay đổi, mức sống của ông có tăng lên, như số chi tiêu bao giờ cũng ở dưới số tăng của tiền lời. Về già ông dựng một trại quá sức tưởng tượng, tức trại Pocantico Hills: mấy ngàn mẫu rừng, bãi cỏ, vườn tược, trong đó có đường cái, dòng nước và bảy mươi lăm biệt thự cho con cháu! Nhưng nếu John D. Rockefeller lập trại đó hai chục năm trước, thì ông đã không còn là John D. Rockefeller, nhà giữ kỷ lục khắp thế giới về việc gây vốn nữa. Và khi ông lập trại thì phí tổn không thấm vào đâu với số lời của ông: hiện nay mỗi tháng ông lời trên sáu triệu Mỹ kim, không có cách tiêu pha điên cuồng nào mà hết được số tiền ấy. Bây giờ thì cái xa xỉ lớn nhất của ông là không thuộc về đời tư của ông nữa, mà thuộc về những công việc từ thiện, việc xây dựng những viện khảo cứu khoa học, việc trợ cấp để bảo tồn điện Versailles, nhà thờ Reims và biết bao bảo vật khác của văn minh. Và mặc dầu tiêu pha nhiều như vậy, gia tài của John D. Rockefeller cũng vẫn tiếp tục tăng theo cái mức trên dưới một trăm Mỹ kim mỗi phút!


Những tấm gương thành công trong cuộc sống – Dale Carnegie (6)

Albert Einstein


Một ngày cách đây mấy năm, tôi đi chơi trong một châu thành nhỏ tại miền Nam nước Đức, thì một ông bạn cùng đi với tôi bỗng đứng lại, chỉ một cửa sổ ở trên lầu một tiệm tạp hoá và bảo:"Anh thấy căn phòng nhỏ ở trên kia không? Einstein ra đời tại đó".
Chiều tối hôm đó tôi gặp Einstein tại nhà một ông chú của ông, và tôi không có cảm tưởng rằng ông là một bậc siêu quần. Điều đó không có gì lạ, vì ngay hồi nhỏ cũng không ai tin rằng ông có tài gì lớn. Bây giờ người ta nhận rằng ông là một tuyệt thế thông minh, một vị khổng lồ của thế hệ này, một trong những nhà tư tưởng sâu sắc nhất cổ kim, vậy mà năm chục năm trước ông là em nhỏ chậm chạp, nhút nhát, đần độn, tập nói một cách cực kỳ khó khăn. Ông tối dạ đến nỗi thầy học của ông phải bực mình và song thân ông sợ rằng ông vào hạng hạ nhân.
Ít năm trước đây một buổi sáng, ông thức dậy ngạc nhiên thấy mình thành danh nhân bực nhất thế giới, không thể tin được rằng một giáo sư toán mà lại được báo chí khắp toàn cầu in tên bằng chữ lớn lên trang đầu như vậy. Ông là một nhà khoa học chứ đâu phải là một nhà quyền thuật hạng Jack Dempsey. Ông thú rằng không thể hiểu được điều đó. Mà cũng không ai hiểu được điều đó. Vì một chuyện như vậy chưa hề xảy ra trong lịch sử loài người.
Con người của ông cũng lạ lùng như thuyết Tương đối của ông vậy. Ông khinh những cái mà phần đông loài người mơ ước như danh vọng, của cải, xa hoa. Chẳng hạn thuyền trưởng một chiếc tàu biển nọ dành cho ông dãy phòng sang trọng nhất dưới tàu, ông từ chối, bảo rằng đi hạng chót còn thích hơn là nhận bất kỳ một đặc ân gì.
Ngày ngũ tuần của ông, chính phủ Đức ban cho ông đủ các ân huệ, dựng một tượng bán thân của ông ở Potsdam, tặng ông một dinh thự và một chiếc tàu buồm, gọi là tỏ lòng quý mến và ngưỡng mộ bất tuyệt của dân tộc.
Nhưng chỉ ít năm sau, người ta lấy lại hết những cái đó và ông sợ, không dám trở về quê quán nữa. Trong mấy tuần lễ, ông trốn trong một ngôi nhà, cửa song sắt ở nước Bỉ và đ êm nào cũng có một người lính canh cho ông ngủ.
Khi ông tới Nữu Ước để làm giáo sư toán ở trường đại học Princeton, ông sợ các nhà báo phỏng vấn và dân chúng hoan hô, nên các bạn thân của ông phải bí mật cho ông xuống thuyền đưa lên bờ trước khi tàu ghé bến rồi chở ông đi bằng xe hơi.
Ông nói rằng khắp thế giới chỉ có mười hai người hiểu được Thuyết tương đối của ông, mặc dầu đã có trên chín trăm cuốn sách giảng giải nó.
Chính ông giải thuyết đó bằng thí dụ dễ dàng và hóm hỉnh này: "Khi anh ngồi với một mỹ nhân, thì một giờ anh tưởng chừng chỉ bằng một phút, nhưng khi ngồi trên một lò lửa nóng thì mới một chút anh coi là một giờ".
Tương đối là vậy, chứ có gì đâu. Tôi cho nó đúng, còn nếu bạn ngờ nó sai thì bạn cứ thí nghiệm, nhưng xin bạn ngồi trên lò nóng còn để tôi ngồi với mỹ nhân nhé.
Bà Einstein nói rằng bà không hiểu thuyết tương đối là cái quái gì cả, nhưng bà hiểu một cái gì quan trọng đối với đàn bà hơn, là hiểu chồng bà.
Một đôi khi có khách khứa lại uống trà và bà lên lầu mời Giáo sư xuống chuyện trò ít lâu. Ông la bể nhà nhà lên: "Không! Không! Tôi không xuống! Không xuống! Tôi phải đi khỏi nhà này mới được. Làm việc ở đây không được. Cấm đấy, không được làm ngưng công việc của tôi như vậy được nữa đa".
Bị ông la như vậy bà cứ điềm tỉnh, để ông phát hết cơn giận của ông ra, rồi bà khéo léo ngoại giao làm sao mà ông cũng xuống nhà dưới uống trà và xả hơi một chút. Bà làm vậy chỉ vì thấy ông làm việc quá mà muốn cho ông nghỉ.
Bà bảo rằng chồng bà thích sự thứ tự trong tư tưởng mà không thích sự thứ tự trong đời sống. Ông muốn làm cái gì là làm, chẳng kể giờ giấc gì cả. Ông hành động chỉ theo hai quy tắc. Quy tắc thứ nhất là không có quy tắc nào cả. Và quy tắc thứ nhì là bất chấp dư luận.
Ông sống cực kỳ giản dị, đi đâu cũng chỉ bận áo cũ, nhàu nát, ít khi đội nón; vào phòng tắm thì ca hát, huýt còi vang lên. Xà bông để tắm thì ông dùng để cạo râu. Con người ráng giải quyết những bí ẩn phức tạp nhất của vũ trụ đó, bảo rằng dùng hai thứ xà bông chỉ làm cho đời thêm phức tạp. Nhìn ông tôi có cảm tưởng rằng ông rất sung sướng. Triết lý về hạnh phúc của ông giúp cho tôi nhiều hơn thuyết tương đối của ông. Mà tôi cho rằng triết lý hạnh phúc đó rất cao đẹp. Ông bảo rằng ông sung sướng vì ông không cần một thứ gì của bất kỳ người nào. Ông không cần tiền, không cần chức tước, không cần lời khen. Ông tìm hạnh phúc cho ông trong những việc rất giản dị là làm việc, chơi vĩ cầm và thả thuyền.
Cây đờn vĩ cầm làm cho ông vui nhất. Ông bảo rằng ông thường suy nghĩ bằng âm nhạc, và mơ mộng bằng âm nhạc.
Một lần, đi xe điện ở Bá Linh, ông bảo người bán giấy đã tính lộn khi thối tiền cho ông. Người đó đếm lại thấy đúng, đưa tiền cho ông, bảo: "cái tai hại của ông là ông không biết đọc con số".


Những tấm gương thành công trong cuộc sống – Dale Carnegie (8)

Edward Bok


Một hôm một em nhỏ đói, ở trường về, ngừng trước một tiệm bánh, thèm thuồng nhìn những ổ bánh mì nóng và những bánh ngọt phết kem.
Người bán hàng thấy vậy, đi ra, hỏi:
- Sao? Em thấy có vẻ ngon lắm, phải không?
Em nhỏ Hòa Lan đó đáp:
- Nếu tấm kính không dơ thì còn có vẻ ngon hơn nữa.
Người bán hàng bảo:
- Em nói đúng. Em chùi nó được không?
Thế là em Edward Bok lãnh được việc làm đầu tiên trong đời em. Mỗi tuần người ta trả em có năm cắc, nhưng đối với em thì bấy nhiêu là cả một kho tàng rồi! Cha mẹ em nghèo tới nỗi ngày nào em cũng phải đi lượm những mảnh than vụn từ trên xe cam nhông rớt xuống đường, xuống rãnh.
Em nhỏ đó, Edward Bok, không biết một tiếng Anh nào khi đặt chân lên đất Mỹ, và nghe thầy giáo giảng bài, em không hiểu gì hết. Em chỉ học có sáu năm, vậy mà sau này làm giám đốc một tạp chí, đã thành công nhất trong nghề làm báo ở Mỹ.
Edward Bok thú rằng ông không biết chút gì về sở thích của phụ nữ, mặc dầu vậy, ông đã sáng lập một Tạp chí phụ nữ lớn nhất thế giới mà số trang và số in cứ mỗi ngày một tăng. Ngày mà ông giao công việc quản lý cho người khác để về nghỉ, thì tạp chí in hai triệu số mỗi tháng và nội tiền quảng cáo cũng đã đem cho ông một triệu Mỹ kim mỗi kỳ rồi.
Edward Bok làm chủ nhiệm tờ Ladie s Home Journal trong ba chục năm. Khi ông thôi làm báo, ông viết tiểu sử ông trong cuốn The Americazination of Edward Bok.
Sau khi chùi kính cho tiệm bánh mì, ông làm đủ các nghề khác nhau, ta có thể nói là ông sưu tập mọi nghề một cách hăng hái như thanh niên sưu tập cò vậy. Sáng thứ Bảy ông bán báo. Chiều thứ Bảy và ngày Chủ Nhật ông đem nước chanh và các đồ giải khát cho những du khách du lịch ở các bến xe ngựa. Tối Chủ Nhật ông viết truyện tình cho một tờ báo trong miền. Tóm lại, ngoài giờ học, ông làm mọi việc để kiếm tiền từ sáu tới hai chục Mỹ kim mỗi tuần. Lúc đó ông mười hai tuổi và qua ở Mỹ chưa được sáu năm.
Mới mười ba tuổi mà ông đã phải thôi học, vào làm chân sai vặt trong phòng giấy ở hãng Western Union. Nhưng không lúc nào ông không học thêm, ông nhất định tự học, Ông đi bộ tới hãng cho khỏi tốn tiền xe, và nhịn bữa trưa để mua một cuốn Tự điển danh nhân Hoa Kỳ. Rồi ông làm một việc lạ lùng: ông đọc tiểu sử những danh nhân đương thời và cả gan viết thư xin họ cho biết chi tiết về tuổi thơ của họ. Ông viết cho đại tướng James A. Garfield, lúc đó ứng cử chức tổng thống, hỏi đại tướng có phải hồi nhỏ đã phải kéo tàu buồm nhỏ trên các kênh không. Ông lại viết cho đại tướng Grant hỏi về một trận nào đó. Grant vẽ một bản đồ cho coi, còn mời thằng nhãi mười bốn tuổi tới ăn cơm và nói chuyện trọn buổi với mình nữa.
Thành thử cậu bé kiếm được sáu đồng hai cắc rưỡi đó làm quen được với những người nổi danh nhất đương thời. Cậu lại thăm Emerson, Philip Brooks, Oliver Wendell Holmes, Longfellow, phu nhân Lincoln lúc đó đã góa, thăm Louia May Alcott và tướng Sherman.
Sự quen biết các danh nhân đó ảnh hưởng quyết định đến sự biến chuyển của Edward Bok. Một người rất có thiên tư mà không được sống gần các giới chỉ huy, có khi phải đợi rất lâu mới tiếp xúc được với những người biết nhận tài năng của mình. Điều này còn tai hại hơn: có thể rằng chính người đó không biết mình có tài, không ngờ nổi mình làm việc này việc nọ, thành thử uổng sức trong những năm trẻ trung để làm những việc tầm thường, rồi về già mới được thi thố tài năng, nếu không chết sớm mà phí cả một đời. Sáng kiến của Edward Bok tỏ rằng ông không chịu đứng lâu một chỗ, khi chỗ đó không xứng với tài ông. Tức khắc ông làm quen được với những người chỉ huy thế giới, hiểu được cách họ nhìn đời, sự quen thuộc đó quý báu vô cùng đối với một ông chủ báo.
Một hôm ở ngoài đường, Edward Bok thấy một người mở một bao thuốc lá, rút tấm hình ra coi rồi liệng đi. Bok thấy là hình người, lượm lên xem, thì ra một chính khách có danh, phía sau để trắng. Ông nghĩ:
"Nếu chép ở sau tấm hình ít hàng tiểu sử của nhân vật thì có lẽ hình không bị liệng như vậy".
Ông bèn nảy ra một ý. Hôm sau ông bỏ bữa cơm trưa, đi ngay lại nhà xuất bản đã in những hình đó. Ông thuyết người chủ, giọng hăng hái và quyết tín đến nỗi người đó xiêu lòng, nhờ ông viết cho một trăm tiểu sử danh nhân, mỗi tiểu sử một trăm chữ, tiền nhuận bút là mười Mỹ kim. Chẳng bao lâu người đó cậy ông viết nhiều quá, ông phải kiếm vài người cộng tác, trả cho họ một nữa tiền, nghĩa là năm Mỹ kim mỗi tiểu sử.
Rồi ông bỏ luôn chân gác cửa, nhào vô nghề xuất bản.
Năm ông đi Philadelphie để lãnh việc nhận quản lý tạp chí Ladie s Home Journal. Ông đúng hai mươi sáu tuổi. Năm ông đóng cửa phòng giấy của ông lần cuối cùng và bảo:"Thôi, từ nay không trở lại đây nữa" thì ông đúng năm mươi sáu tuổi, đương lúc tinh thần còn tráng kiện.
Trong ba chục năm đó, ông đã tự tạo được một địa vị độc nhất trong nghề làm báo ở Hoa Kỳ. Ông đã giàu lớn, nhưng không phải chỉ vì ông nhiều tiền mà gọi ông là thành công được.
Nào ta thử xét xem Edward Bok đã giúp mỗi người Hoa Kỳ được những gì.
Trước hết, thức ăn được tinh khiết hơn là nhờ những bài báo của tạp chí ông hô hào sự kiểm soát thực phẩm. Thành phố Hoa Kỳ sạch sẽ hơn, hợp vệ sinh hơn nhờ ông đã bỏ tiền ra gây một dư luận mạnh mẽ chống sự chất rác thành đống trong châu thành. Nhà cửa ngày nay xây cất và trang hoàng cũng đẹp hơn xưa nhờ những bài mạt sát kiểu nhà vừa xấu vừa đắt tiền của thế kỷ trước.
Ông thành công đến nỗi Tổng Thống Theodore Roosevelt khen rằng: Edward Bok là người độc nhất mà tôi biết đã dùng phương pháp cải thiện mà thay đổi hẳn cách ở của cả một dân tộc.
Mười năm cuối trong đời ông, sau khi về nghỉ rồi, ông lập vườn, mua hàng ngàn củ uất kim hương ở quê hương ông là Hòa Lan đem trồng hai bên đường cho vui mắt khách qua đường. Ông cho trồng hồng lên những bãi cỏ chung quanh các ga xe lửa.
Nhưng lâu đài nổi danh và lâu bền nhất của ông là ngôi tháp lạ lùng Singing Tower ở Floride. Chỗ mà hồi xưa chỉ là một khoảng cát khô khan trên một ngọn đồi cao nhất ở Floride thì bây giờ thành nơi ẩn náu của loài chim, thành một vùng xanh mướt, có hàng trăm ngàn cây lớn nhỏ. Và vượt lên rừng cây đó là một ngôi tháp có chuông cao khoảng sáu chục thước, xây bằng cẩm thạch hồng, tháp đó in bóng lên mặt hồ trong veo, mát mẻ ở dưới chân.