Showing posts with label nguoibinhduong. Show all posts
Showing posts with label nguoibinhduong. Show all posts

Wednesday, May 01, 2024

Áp lực “đàn ông xây nhà” trong thời sa thải


Giữa làn sóng mất việc rộng khắp cùng kinh tế khó khăn, kỳ vọng nam giới kiếm tiền còn phụ nữ ở nhà chăm sóc con cái trở thành áp lực với những người đàn ông không thể xây cả nhà lẫn tổ ấm.

Quan niệm “đàn ông săn bắt, đàn bà hái lượm” được nối tiếp bằng kỳ vọng nam giới kiếm tiền (breadwinner), phụ nữ ở nhà chăm sóc con cái (homemaker). Trong xã hội hiện đại, khi phụ nữ cũng đi làm, đây vẫn là “chuẩn mực xã hội” ở hầu hết mọi nơi. Giữa làn sóng mất việc rộng khắp cùng kinh tế khó khăn, chính điều này lại trở thành áp lực với những người đàn ông không thể xây cả nhà lẫn tổ ấm.

Mới đây, trên diễn đàn Reddit, một người đàn ông đã nhờ cộng đồng mạng phân xử vấn đề: bức xúc vì bạn gái từ chối trả tiền thuê nhà lúc thất nghiệp, “liệu tôi có phải gã tồi”?

Người đàn ông kể mình quen người phụ nữ ba năm và họ sống chung được hai năm. Khi mới hẹn hò, cô bày tỏ mong muốn sẽ đính hôn sau hai năm và thời gian qua đã rất thất vọng khi anh không cầu hôn. Do khoản trợ cấp từ thất nghiệp không đủ, mới đây anh chàng nhờ bạn gái trả hộ tiền nhà nhưng cô từ chối. 

Anh chàng bức xúc: ba năm bên nhau chẳng lẽ không có ý nghĩa gì với cô ấy? Anh kể người bạn gái cũng cho rằng việc họ bên nhau ba năm chẳng có ý nghĩa gì một khi anh không cầu hôn. 

Trong quan điểm của cô, anh đơn giản là có thể tuyên bố không muốn kết hôn và bỏ cô bất cứ lúc nào. Nếu đã không cầu hôn, hà cớ gì anh lại muốn người có tư cách bạn gái hành xử với trách nhiệm của một người vợ?

Đa số độc giả Reddit đồng ý rằng người đàn ông “đúng là một gã tồi” và ủng hộ cách xử lý của người phụ nữ. Đã không cam kết làm chồng, đòi hỏi đối phương đạo nghĩa của người vợ khi gặp khó khăn là chuyện nực cười. Câu chuyện của người đàn ông đặt ra một vấn đề lớn hơn khi nó diễn ra giữa cơn bão sa thải: việc thất nghiệp có tác động đến nam và nữ như nhau?

Cái tôi bị tổn thương

Theo tạp chí Harvard Business Review, mặc dù sa thải là chuyện người lao động nào – già, trẻ, thuộc mọi xu hướng giới tính – cũng phải đối mặt, nhưng nam giới trong mô hình gia đình khác giới dễ bị kỳ thị và cảm thấy tiêu cực nhiều hơn so với phụ nữ. Các chuẩn mực xã hội truyền thống khiến nam giới cảm thấy mình là kẻ thất bại khi họ bị mất việc làm.

Ở độ tuổi cận kề 59, Robert – một người Mỹ từng có việc làm tốt với đãi ngộ và lương bổng thuộc hàng top – đột ngột bị sa thải. Anh đã ở nhà gần một năm. Robert cho biết một trong những thay đổi ở mình sau khi bị mất việc là đặc biệt nhạy cảm khi bị xem thường. “Vì chẳng công ty nào muốn tuyển bạn, bạn dễ cảm thấy mình không được ghi nhận, không được tôn trọng – ông nói – Mỗi ngày, liên tục bạn phải đấu tranh với cái tôi của bản thân”.

Robert kể người vợ rất tích cực hỗ trợ ông tìm việc làm mới nhưng điều này phản tác dụng, khiến ông thấy quá tải và cảm thấy áp lực hơn. “Cô ấy rất tích cực tìm và gửi cho tôi những công việc tôi có thể quan tâm. Một số đúng là như vậy nhưng đa số toàn là những việc tôi không hề hứng thú. Với tôi, sự nhiệt tình của cô ấy như muốn nói rằng tôi phải kiếm việc gì đó mà làm” – ông nói.

Không chỉ ở Mỹ, áp lực tâm lý khi đàn ông thất nghiệp cũng đầy rẫy ở khắp châu Âu. Trong nghiên cứu với hơn 42.000 người ở chín quốc gia châu Âu trong đó có Anh, Đức, Tây Ban Nha… các nhà khoa học ở Đại học Bath, Anh, cho biết khi vợ/bạn gái là người đi làm kiếm tiền, nam giới khó chấp nhận chuyện này và gặp khó khăn tinh thần nhiều hơn phụ nữ.

Cụ thể, tình trạng bị thất nghiệp trong khi vợ/bạn gái là trụ cột tài chính đè nặng lên tâm lý người đàn ông đến mức họ thấy nhẹ nhàng hơn khi vợ cũng thất nghiệp như mình, theo kết quả nghiên cứu đăng trên tạp chí European Sociological Review hồi tháng 6. Tâm lý này có ở cả những quốc gia nổi tiếng về bình đẳng giới như Phần Lan.

Nam giới thất nghiệp có mức độ hài lòng với cuộc sống cao hơn đáng kể khi bạn đời cũng thất nghiệp. Ngược lại, hằng ngày nhìn vợ/bạn gái đi làm hoặc bận bịu làm việc ở nhà có thể khiến cái tôi của người đàn ông tổn thương nghiêm trọng.

Thất nghiệp đánh vào lòng tự trọng, sự tự tin của cả hai giới nhưng nam giới đặc biệt bị tổn thương hơn nữ giới. Họ trở nên dễ “xù lông nhím” trong những giao tiếp hằng ngày, đặc biệt khi câu chuyện chĩa mũi dùi vào việc họ cần phải kiếm việc làm.

Phụ nữ có gia đình hoặc trong quan hệ lâu dài với bạn đời nam giới ở một vị thế khác khi thất nghiệp. Hầu hết đều cảm thấy không cần gấp gáp tìm việc làm mới. Nhiều người cho biết họ thậm chí còn rất vui vì cuối cùng cũng có thể dùng khoảng thời gian này để nghỉ ngơi, được làm một bà nội trợ tận hưởng những giây phút an nhiên. 

Các cuộc nói chuyện với chồng/bạn đời của họ ít hướng về chủ đề thất nghiệp và tìm việc làm mới. Kiếm việc mới không phải là “vấn đề cấp bách” khi người phụ nữ thất nghiệp.

“Đối ngoại” cũng ảnh hưởng

Việc nuôi dạy con cái và đối mặt với gia đình hai bên nội ngoại cũng khác nhau giữa trường hợp người vợ/chồng mất việc, giáo sư Aliya Hamid Rao, tác giả bài viết trên tạp chí Harvard Business Review kết luận. 

Rao là trợ giáo sư tại Trường Kinh tế London, chuyên nghiên cứu tình trạng công việc bấp bênh và thất nghiệp. Bà vừa xuất bản quyển Crunch Time: How Married Couples Confront Unemployment (tạm dịch: Thời kỳ khó khăn: Các cặp vợ chồng đối mặt với tình trạng thất nghiệp như thế nào).

Qua nghiên cứu, Rao nhận thấy người chồng, người cha có xu hướng tự trách vì mình mất việc làm mà các con không được bằng bạn bằng bè. Ngoài Robert, một nhân vật khác tên Kevin kể cô con gái 6 tuổi của vợ chồng anh muốn nuôi chó đúng lúc anh thất nghiệp. 

Họ phải giải thích với con rằng cô bé cần chờ khi Kevin có việc làm mới vì nuôi thú cưng sẽ phát sinh nhiều chi phí. Kevin kể sau cuộc nói chuyện đó, mỗi khi thấy ai đó dắt chó đi dạo ngoài đường, cô con gái liền khoe: “Cháu sẽ có một con chó, khi nào bố có việc làm”. Lời trẻ con khiến Kevin rất xấu hổ và bị hành hạ bởi cảm giác anh là người bố thất bại.

Trong khi đó, phụ nữ không cảm thấy tội lỗi như vậy. Grace mang về 50% thu nhập cho gia đình trước khi mất việc. Cô đã tiết kiệm bằng cách mua sắm tại các cửa hàng giá rẻ hoặc hiệu đồ cũ. 

Nhiều người phụ nữ cho biết mất việc làm không hẳn là “mất” mà là “được” khi họ dành khoảng thời gian này gần gũi các con, điều mà khi bận rộn với công việc họ không làm được. Trong trường hợp của Grace, chị đã tận hưởng thời gian không có việc làm trong mùa hè để đưa các cô con gái đi bơi, đi picnic, đi sở thú, bảo tàng…

Các cặp vợ chồng cho biết thách thức của mất việc làm của họ còn là có nên báo cho gia đình hai bên biết không và nếu có thì làm như thế nào. Theo logic thông thường, chúng ta nên báo với gia đình vì những người thân khi mất việc có thể họ biết những việc làm phù hợp cho bạn và giới thiệu. Tuy nhiên, trong gia đình của những người đàn ông thất nghiệp, họ thường cảm thấy rất xấu hổ và không muốn bị anh chị em và cha mẹ thương hại nên giữ kín.

Rao nêu vài ví dụ. Khi chồng mất việc, Connie “xấu hổ” và không “muốn mọi người thương hại chúng tôi”. Emily, có chồng là Brian bị mất việc, cũng nói rằng cô phải cố gắng giữ kín tình trạng thất nghiệp của chồng. Tuy nhiên, trong một kỳ nghỉ cùng gia đình và “Brian kể với mọi người và điều này thành mối quan tâm của tất cả mọi người”.

Áp lực "đàn ông xây nhà" trong thời sa thải- Ảnh 3.

Ngược lại, trường hợp người vợ trong gia đình mất việc, họ không phải vất vả che giấu tình trạng thất nghiệp theo cách tương tự. Với đại gia đình của họ, không ai xem việc tình trạng thất nghiệp của phụ nữ là vấn đề lớn hoặc phải lập tức kiếm việc mới. 

Nhiều gia đình còn thấy không cần người phụ nữ quay lại công việc thậm chí còn tốt hơn. Chẳng hạn, với Julia, sau khi mất việc, chị tích cực tìm việc nhưng rồi thay đổi kế hoạch và ở nhà làm nội trợ. Chị cho biết “mẹ chồng tôi từng ở nhà chăm các con và bà rất muốn tôi cũng như vậy với các cháu của bà”. 

Mẹ chồng hỏi vợ chồng Julia cần hỗ trợ bao nhiêu tiền để Julia ở nhà và chu cấp số tiền này. Julia cho biết cô biết ơn mẹ chồng vì nhờ có bà, cô vừa ổn định về tài chính và vừa được ở bên con trai nhiều hơn.

Để các gia đình vượt qua gánh nặng tâm lý của việc sa thải tốt hơn, các nhà nghiên cứu kêu gọi cần thay đổi cách xã hội đánh giá tình trạng mất việc làm và xem lại các quan điểm truyền thống lỗi thời.

Sự thay đổi này nên xảy ra càng sớm càng tốt vì suy cho cùng, hầu như ai trong chúng ta cũng có lúc nếm mùi thất nghiệp, thất bại. Thất nghiệp đã đủ tệ rồi và không người đàn ông nào đáng phải bị phán xét bởi các chuẩn mực truyền thống.

Xã hội cần giải phóng nam giới khỏi kỳ vọng “xây nhà và chu cấp”, cắt đứt mối liên hệ giữa kiếm tiền và nam tính. Thay đổi quan điểm về việc đàn ông kiếm tiền là tiền đề rất quan trọng để nam giới không còn cảm thấy thất bại khi không đạt được kỳ vọng này.

Nghiên cứu trên European Sociological Review cảnh báo việc phụ nữ là trụ cột tài chính cho gia đình – điều không lạ trong xã hội ngày nay – đang đe dọa một cách rõ ràng đến cảm nhận của nam giới không đi làm về bản lĩnh đàn ông của họ. 

“Điều này làm tăng thêm những hậu quả tiêu cực về chất lượng cuộc sống của nam giới không có việc làm hoặc thu nhập thấp hơn” – các tác giả viết. Họ dễ bị kỳ thị và phán xét nặng nề như “bị nói xấu sau lưng, chế giễu và chê bai” vì không phải trụ cột gia đình.

Nghiên cứu cũng cho biết nam giới không có việc làm có nguy cơ bị cô lập và cô đơn lâu dài, do ít có mạng lưới cộng đồng và bạn bè để dựa vào hơn phụ nữ.

Theo TTCT

——

THANK YOU SO MUCH

Tuesday, April 30, 2024

Nhảy cóc – Bước đi mạo hiểm nhưng cũng đầy kỳ vọng (Skip the line)


Trong cuốn sách Skip the line – Người thành công có lối đi riêng, tác giả đã đưa ra những phương pháp “nhảy cóc” để bạn có thể học nhanh hơn, sáng tạo hơn và bắt đầu những cuộc phiêu lưu cho cuộc đời mình.

Nhảy cóc không là mẹo hay lối tắt

Nó là đam mê dẫn dắt việc học hỏi, thời gian và nhiều nguồn lực khác.

Tất cả chúng ta đang phải xây dựng một nền kinh tế đang hấp hối, một xã hội chứa đầy nỗi sợ hãi và mỗi cá nhân cần phải học cách vượt qua vô vàn sự bất ổn. Giữa bộn bề cuộc sống, chúng ta không thể lúc nào cũng đi từng bước một theo các lối mòn. Chúng ta cần phải đứng lên và tự tìm những con đường phù hợp cho chính mình.

Rất nhiều người trong số chúng ta sẽ phải nhảy cóc.

Bạn cần phải thật khôn ngoan trong việc lựa chọn những kỹ thuật cơ bản để có thể nhảy cóc. Nếu bạn không biết bản thân đang hổng phần nào, thì làm sao bạn biết những gì bạn cần tìm hiểu? Tất cả chúng ta đều có những điểm mạnh và điểm yếu riêng, nhưng sau cùng thì chúng ta có rất nhiều điểm yếu giống nhau và chúng thường liên quan đến việc giao tiếp và hiệu suất công việc.

Kỹ thuật 1% mỗi ngày

Dưới đây là một vài kỹ thuật trong quyển sách Người thành công có lối đi riêng (Skip the line) mà tác giả đã học được và tự đúc rút để giúp cải thiện các kỹ năng cơ bản thêm 1% mỗi ngày.

Kỹ thuật xin lời khuyên: học cách xin lời khuyên – đây vừa là hình thức tôn trọng và thừa nhận vị thế của người đối diện, vừa giúp bạn nhận ra được vấn đề của bản thân mình.

6 phút kết nối: xây dựng lại và tạo ra các kết nối với những người xung quanh, những người bạn cũ đã lâu chưa liên lạc.

Đảo ngược!: không chỉ lắng nghe mà hãy “đảo ngược” – tìm kiếm điều ngược lại với những gì bạn tin là đúng. Từ đó bạn sẽ trở nên toàn diện hơn và có thể hiểu biết về tư duy của hàng triệu người.

Kỹ thuật Google: Google sẽ luôn cho bạn biết những gì bạn cần – chúng ta cũng nên như thế. Học cách giúp đỡ người khác, lắng nghe và ghi nhận những người xung quanh.

Giảm thiểu sự chú ý: Giảm thiểu các thông tin gây sao nhãng để chú tâm rèn luyện, học tập hay làm việc hiệu quả hơn.

Kỹ thuật “Có, và…”: Để nhảy cóc, bạn cần giao tiếp với mọi người ở mọi địa vị khác nhau. Thông thường, để quan điểm của bạn chiếm ưu thế, bạn phải biết cách phê bình các quan điểm hiện có khác. Điều quan trọng là có thể sử dụng “Có, và…” để góp ý mang tính xây dựng. Lời phê bình của bạn nên mang tính đôi bên cùng có lợi.

Đối phó khi bị từ chối: Nếu các ý tưởng của bạn bị từ chối – không sao cả. Hãy tự lực thử nghiệm mỗi ngày. Thực hiện các thử nghiệm về những thứ bạn quan tâm, và từ thử nghiệm bạn sẽ học hỏi được nhiều điều.

“Skip the line – Người thành công có lối đi riêng” sẽ giúp bạn nhảy cóc

Skip the line – Nhảy cóc không phải là các mẹo có thể áp dụng trong mọi tình huống. Nó là một cách sống cho phép đam mê dẫn dắt việc học hỏi, thời gian và nhiều nguồn lực khác. Bằng cách luyện tập để giỏi hơn mỗi ngày, bạn sẽ có thể làm những việc gần với sở thích và đam mê của mình nhất.

Đây là cách tiếp cận những thay đổi và khủng hoảng bằng cách sử dụng các công cụ giúp tăng cường sự sáng tạo, kỹ năng thực hành, thuyết phục, lãnh đạo và hiệu suất làm việc. Tất cả những kỹ năng này khi kết hợp với nhau sẽ đưa bạn tới thành công vượt ngoài sức tưởng tượng, với tốc độ mà người khác sẽ nói là bất khả thi.

Theo DNPlus

——

THANK YOU SO MUCH

Tuesday, December 12, 2023

Hội chứng sợ tắt máy – FOSO (Fear of switching off)

 

Hội chứng sợ tắt máy – FOSO (Fear of switching off)

Hội chứng “sợ tắt máy” (FOSO) được coi là “căn bệnh của thời đại” khi mối quan tâm lớn nhất không phải là tận hưởng cuộc sống mà lo sợ thiết bị điện tử mất kết nối.

Khi Jasper Chan bước qua cánh cửa vào khuôn viên ngôi chùa Wat Arun ở thủ đô Bangkok (Thái Lan), một nỗi lo lắng mơ hồ dâng lên. Anh sợ khi vào trong kết nối Internet của chiếc điện thoại bị ngắt và các cuộc gọi Whatsapp có thể không thực hiện được.

“Tôi muốn có câu trả lời càng sớm càng tốt? Bây giờ tôi không mang theo máy tính xách tay!”, Chan, một luật sư 30 tuổi nói với đồng nghiệp của mình một cách bực tức.

Những người xung quanh ngạc nhiên quay lại nhìn anh. Người ta thấy lạ vì anh không buồn nhìn vào những bức tranh khảm công phu nổi tiếng và các cấu trúc độc đáo của ngôi chùa. Anh cũng không thả lỏng để tận hưởng bầu không khí yên bình như những người khác. Người đàn ông này chỉ chăm chăm nhìn vào màn hình chiếc smartphone đang bị mất sóng.

Nghiên cứu của Priority Pass – công ty toàn cầu cung cấp dịch vụ hỗ trợ hành khách hàng không cao cấp, hơn 1/3 số du khách cảm thấy khó thoát khỏi cuộc sống hàng ngày khi đi nghỉ. Những người như Chan trả lời khảo sát rằng họ luôn phải đối mặt với áp lực duy trì kết nối với thiết bị của họ. Hơn 73% bày tỏ lo lắng bỏ lỡ tin nhắn nếu họ không kiểm tra điện thoại thường xuyên.

Một nữ du khách tranh thủ ngồi làm việc ngay trong chuyến leo núi dã ngoại ở Lethoso, châu Phi, tháng 7/2022. Ảnh: CNBC
Một nữ du khách tranh thủ ngồi làm việc ngay trong chuyến leo núi dã ngoại ở Lethoso, châu Phi, tháng 7/2022. Ảnh: CNBC

Todd Handcock, giám đốc thương mại toàn cầu và chủ tịch khu vực Châu Á Thái Bình Dương của Priority Pass, cho biết: “Việc tiếp tục làm việc từ xa sau đại dịch đã làm trầm trọng thêm sự kết nối liên tục với các thiết bị làm việc, khi ranh giới giữa cuộc sống nghề nghiệp và cá nhân tiếp tục bị xóa nhòa”.

Cảm giác khó chịu khiến mọi người bị trói buộc vào thiết bị của họ được các chuyên gia tâm lý đặt tên là “hội chứng sợ tắt máy”, hay FOSO (Fear of switching off). Nó gần giống với nỗi sợ bị bỏ lỡ (FOMO – Fear of missing out), thường được biểu thị là nỗi lo lắng không được tham gia vào những trải nghiệm hoặc hoạt động thú vị mà người khác tham gia.

Handcock cho biết FOSO có thể được coi là phần mở rộng của FOMO. Ông giải thích thêm: “Nỗi sợ bị ngắt kết nối khỏi các thiết bị một phần xuất phát từ nỗi sợ bỏ lỡ việc cập nhật tình hình ở cơ quan hay gia đình”.

Và sự khó chịu dai dẳng này có thể ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, thậm chí là các kỳ nghỉ của mọi người.

Chan thừa nhận mình mắc hội chứng FOSO: “Có rất nhiều nhóm khách du lịch tụ tập và chụp ảnh, trong khi tôi là người duy nhất bận nghe điện thoại và cố gắng tìm một góc yên tĩnh để nhận cuộc gọi” .

Nhà tâm lý học lâm sàng, tiến sĩ Cortney Warren (Mỹ) coi FOSO là trải nghiệm của những người muốn thư giãn nhưng không thể thoát khỏi trách nhiệm hàng ngày trong cuộc sống.

Theo dữ liệu của công ty tư vấn Kepios, hơn một nửa dân số thế giới hiện đang sử dụng mạng xã hội, phần lớn bị lệ thuộc vào một nền tảng nào đó và điều này có thể gây nghiện.

“Ai cũng biết điều này (nghiện mạng xã hội) là không tốt nhưng việc đặt các thiết bị điện tử sang một bên và sống cho hiện tại không phải là một điều dễ dàng”, tiến sĩ nói. “Bản thân việc du lịch có thể gây căng thẳng vì bạn không có thói quen này hàng ngày và có thể có những công việc đang diễn ra ở nhà đòi hỏi bạn phải chú ý để đảm bảo mọi việc diễn ra suôn sẻ”.

Theo khảo sát của Priority Pass, FOSO phổ biến ở những du khách trẻ tuổi. Khoảng 51% Gen Z (độ tuổi 18-27) được hỏi thừa nhận đã kiểm tra tin nhắn công việc khi đi du lịch. Chỉ khoảng 29% người thuộc thế hệ Baby Boomer (59-77 tuổi) nói họ từng làm như vậy.

Tovah Klein, phó giáo sư tại Đại học Barnard (New York, Mỹ), cho rằng điều này là dễ hiểu vì thế hệ Baby Boomer đã trưởng thành từ rất lâu trước khi công nghệ cầm tay và mạng xã hội xuất hiện. Trong khi đó, các thế hệ trẻ hơn, chẳng hạn như Gen Z và Millennials (27-42 tuổi), đã lớn lên cùng với công nghệ và có nhiều khả năng được kết nối liên tục hơn.

Đầu tháng 3, Jefferson Low, 29 tuổi, nhà giao dịch tiền tệ tại một ngân hàng đã dành cả tuần trong kỳ nghỉ để đi trượt tuyết ở Niseko, khu nghỉ mát trượt tuyết có cảnh đẹp nổi tiếng nhất Nhật Bản.

Sau mỗi lần trượt, khi các bạn cùng lớp của anh bận phủi tuyết bám trên người và chạy đến cáp treo để chuẩn bị cho một vòng khác, Low lại rút điện thoại để kiểm tra diễn biến của thị trường chứng khoán.

Low tiết lộ có lần anh còn theo dõi một cuộc họp chính sách sắp tới của Ngân hàng Trung ương Nhật Bản khi đang ở trên sườn núi. “Điều này không dễ chịu lắm vì tôi luôn sợ hết pin”, nói.

Nhưng ngày càng có nhiều người quyết tâm chiến đấu chống lại hội chứng FOSO. Họ thiết lập quy tắc “không làm việc” khi đi nghỉ.

Tan De Xun, nhân viên bán hàng tại một công ty phần mềm ở Singapore, cho biết bất cứ khi nào ở nước ngoài anh đều cố gắng không chạm vào điện thoại. “Tôi rất rõ ràng trong việc vạch ra ranh giới. Không có gì liên quan đến công việc sẽ được lưu trên điện thoại cá nhân của tôi”, anh nói. “Vấn đề số một mà nhiều người gặp phải là họ mở rộng các ứng dụng kinh doanh trên điện thoại của mình, chẳng hạn như Teams và Outlook”.

Nhưng không phải công việc của ai cũng cho phép họ thư giãn hoàn toàn.

Luật sư Chan cho biết anh duy trì truy cập vào email công việc trên tất cả các thiết bị của mình để có thể kiểm tra và phê duyệt tài liệu bất cứ khi nào anh ấy có thời gian, thậm chí tham gia các cuộc họp trên Zoom vào các ngày nghỉ nếu cần thiết.

“Tôi chỉ là một bánh răng trong cỗ máy nên nếu phản hồi của tôi bị trì hoãn, công việc của những người khác ở phía dưới sẽ bị ảnh hưởng”, anh giải thích.

Lam Giang (Theo CNBC) / vnexpress

—-

ONE THOUGHT ON “HỘI CHỨNG SỢ TẮT MÁY – FOSO (FEAR OF SWITCHING OFF)

4 suy nghĩ sai lầm không thể thoát nghèo

4 suy nghĩ sai lầm không thể thoát nghèo


Nghèo khó về tài chính không đáng sợ bằng nghèo khó trong tư duy. Nếu còn giữ mãi những suy nghĩ này sẽ khó thoát khỏi bế tắc trong cuộc sống.

Dưới đây là 4 suy nghĩ sai lầm mà nhiều người mắc phải, khiến bản thân khó có thể thành công và thoát nghèo.

Làm việc chăm chỉ là con đường duy nhất trở nên giàu có

Từ khi còn nhỏ, ai cũng được dạy phải làm việc chăm chỉ mới đạt được thành công. Nhưng thực tế, “làm việc chăm chỉ” chưa bao giờ là đủ để đạt được ước mơ làm giàu.

Triệu phú tự thân, nhà sáng lập và giám đốc điều hành của VaynerMedia – Gary Vaynerchuk từng nói: “Nếu tất cả những gì bạn làm cả đời là chăm chỉ làm việc, bạn sẽ không bao giờ trở nên giàu có được. Bởi làm việc chăm chỉ chưa đủ để bạn kiếm tiền và tiết kiệm”. Theo ông, ngoài chăm chỉ còn cần nhiều yếu tố khác để thành công như cơ hội, sự đổi mới, sáng tạo hay các mối quan hệ…

Dù chăm chỉ làm việc nhưng nếu không có tư duy đổi mới sáng tạo, không có tinh thần học hỏi và khả năng giao tiếp thì chỉ làm công ăn lương bình thường. Ngoài ra, nếu không biết phát triển các mối quan hệ, cả đời cũng sẽ tụt lùi lại phía sau.

Thực tế, hiệu quả lao động cũng chất lượng công việc không phụ thuộc vào thời gian làm việc. Những người thành công và giàu có luôn cân bằng giữa cuộc sống và công việc. Họ tận dụng từng giây từng phút để nâng cao hiệu quả công việc, chăm sóc bản thân và mở rộng giao lưu, học hỏi thêm những kiến thức mới. Rõ ràng, bên cạnh sự cố gắng và chăm chỉ, còn rất nhiều yếu tố khác quyết định đến thành công của mỗi người.

Chỉ người có trình độ học vấn cao mới tìm được công việc ổn định

Theo quan niệm truyền thống, nhiều người vẫn cho rằng chỉ khi có bằng cấp hay trình độ học vấn mới có thể tìm được công việc tốt.

Tuy nhiên, với sự phát triển của xã hội, nhu cầu của các công ty, doanh nghiệp đối với nhân tài không chỉ là một tấm bằng tốt nghiệp. Quan trọng hơn cả, họ cần năng lực “thực chiến” của con người. So với tài năng thực sự và kinh nghiệm thực tế, bằng cấp chỉ là một tờ giấy.

Bằng cấp không có lỗi, lỗi là nhiều người nhận thức sai lầm chỉ cần bằng cấp là đủ để xin việc làm. Thực chất bằng cấp giống như một tấm vé vào cửa để bạn bước vào cuộc sống trưởng thành hơn, mà không có quyền năng đặc biệt đủ để có chỗ đứng trong xã hội. Khi vào đời, chẳng mấy ai nhớ tới “tấm vé” bằng cấp mà chính kiến thức, kỹ năng mềm mới là hành trang theo mỗi người tới suốt sự nghiệp. Do đó, luôn cần biết mình là ai, năng lực thế nào để chọn nghề phù hợp.

Nhiều của cải sẽ khiến con người có suy nghĩ sai lệch

Steve Siebold – tác giả của cuốn sách “Người giàu nghĩ thế nào” cho hay, người nghèo luôn nghĩ rằng người giàu là những kẻ kiêu căng, bởi vậy người giàu chỉ muốn kết giao với những người có tư tưởng giống mình. Người giàu không thể hiểu được thông điệp của sự bất hạnh và não nề, khi mà số đông lại xem đây là biểu hiện của thói hợm hĩnh.

Thực tế tư cách cũng như đạo đức của một người không được quyết định bởi việc họ có nhiều tiền hay không. Đa số người thành công, giàu có, có khối tài sản kếch xù vẫn luôn khiêm tốn. Họ dùng chính tài sản của mình để giúp đỡ người khác và cống hiến cho xã hội. Bởi vậy, không phải sự giàu có sẽ làm “biến chất” con người, mà sẽ giúp con người nâng cao hiểu biết, sử dụng của cải hiệu quả và ý nghĩa.

Nói về tiền bạc sẽ làm tổn thương cảm xúc

“Đề cập tới tiền bạc” là xu hướng nhiều người thường tránh né trong mọi mối quan hệ. Họ cho rằng, nhắc đến tiền sẽ khiến các mối quan hệ xa cách, bị tổn hại, thậm chí tan vỡ. Nhưng thực tế, tiền bạc rất quan trọng trong đời sống cũng như mọi mối quan hệ xã hội. Tiền không phân tốt hay xấu, ngược lại cách người ta dùng tiền mới khiến nó trở thành tốt hay xấu. Bàn về tiền một cách tự nhiên, nghiêm túc, rõ ràng, sòng phẳng, sẽ tốt cho cả hai bên. Thẳng thắn nhắc đến tiền càng dễ hòa hợp hơn là ngại ngùng.

Bởi vậy dù ở mối quan hệ nào, không cần ngại ngùng khi nhắc tới tiền. Thông qua đó, hai bên có thể thấu hiểu nhau về quan điểm cũng như mong muốn. Từ đó nâng cao sự hiểu biết, tạo sự tin tưởng hơn trong các mối quan hệ.

Vy Trang (Theo aboluowang) / vnexpress

——

THANK YOU SO MUCH