Nguyễn Thị Hiền (*) |
Dốc Chùa (Cầu Chùa) là tên gọi một địa điểm khảo cổ học thuộc xã Tân Mỹ, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương được Ban khảo cổ thuộc Viện Khoa học xã hội tại TP.HCM (nay là Viện Phát triển bền vững vùng Nam bộ) phát hiện sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng.Địa điểm khảo cổ học Dốc Chùa nằm trên sườn thấp của một ngọn đồi, phía Bắc là đỉnh đồi, phía Nam giáp với sông Đồng Nai, phía Đông và phía Tây giáp với hai con suối nhỏ chảy thẳng ra sông. Với địa thế như vậy, địa điểm khảo cổ học Dốc Chùa nói riêng và cả vùng Tân Uyên nói chung là khu vực rất thuận tiện cho việc cư trú của cư dân cổ xưa. Thật vậy, cách Dốc Chùa khoảng 300m về phía Đông có di chỉ Vườn Dũ, một địa điểm khảo cổ học có niên đại thuộc hậu kỳ đá cũ, cách Dốc Chùa khoảng 3km có địa điểm khảo cổ học Mỹ Lộc thuộc hậu kỳ đá mới - sơ kỳ đồng thau được T.V.Hoibe phát hiện năm 1887, cách Dốc Chùa 10km về phía Đông Bắc có địa điểm khảo cổ học Cù lao Rùa, cách Dốc Chùa khoảng 12km có địa điểm khảo cổ học Hàng Ông Đại và Hàng Ông Đụng.Di tích Dốc Chùa thuộc thời đại đồng thau phát triển ở lưu vực sông Đồng Nai, là địa điểm khảo cổ có di tích cư trú cấu tạo bởi hai tầng văn hóa phát triển sớm muộn khác nhau và có di tích mộ táng nằm trong tầng văn hóa. Lần theo dấu tích lịch sử, trong nghiên cứu khảo cổ học thì cách nay hàng ngàn năm người Việt cổ cũng rất quan tâm chú trọng đến cõi vĩnh hằng. Những cộng đồng cư dân từng tồn tại ở nước ta thời tiền sử về thế giới bên kia, được tìm thấy vô cùng phong phú. Người cổ xưa đã sử dụng mộ huyệt đất như ở Thiệu Dương, Đông Sơn, Núi Lấp, Quỳ Chữ; loại mộ vò (Làng Vạc, Quỳ Chữ); mộ quan tài hình thuyền bằng thân cây khoét rỗng ở Việt Khê, Châu Can. Ở khu vực miền Trung nước ta, cư dân thuộc văn hóa Sa Huỳnh đã sử dụng những chum gốm có kích thước lớn để chôn người chết; ở miền Đông Nam bộ cũng phát hiện dày đặc các mộ vò như ở Giồng Phệt, Giồng Cá Vồ (TP.HCM), Phú Hòa, Dầu Giây, Suối Chồn (Đồng Nai). Trên địa bàn tỉnh Bình Dương ngoài khu mộ táng phát hiện được ở di tích Dốc Chùa còn có khu mộ táng phát hiện được ở di tích Cù lao Rùa và di tích Phú Chánh. Di tích Dốc Chùa được phát hiện vào năm 1976 và tiến hành khai quật vào năm 1976, 1977, 1979 và 2009. Đã phát hiện được 40 ngôi mộ nằm trong tầng văn hóa của di tích. Những ngôi mộ được phát hiện nằm khá tập trung trong các hố phía Đông và Tây của sườn đồi. Trong số này có 29 ngôi mộ được phát hiện trong quá trình đào lớp đất văn hóa phía trên. Đó là những nhóm đá cục, đá keo lẫn gốm nằm tập trung theo dạng hình chữ nhật. Đá được xếp trên nấm mộ thường có kích thước không lớn, không có kích thước gia công. Gốm lẫn trong đá thường rất vụn, kích thước nhỏ trong tầng văn hóa. Hiện vật chôn theo ở gần cuối đất văn hóa phía dưới hoặc ngay trên bề mặt của lớp đất sinh thổ. 3 mộ không có rải đá mà chỉ có gốm đỏ là gốm của một số đồ đựng có kích thước lớn được đập vỡ thành những mảnh lớn và rải đều trên nấm mộ. 8 mộ không tìm thấy nấm mộ phía trên, mộ được xác định là do việc phát hiện di vật nằm ở phía dưới và sự khác biệt giữa chất đất ở bên trong và bên ngoài mộ. Trong số này có 3 mộ ở hố II, khai quật năm 1976 không phát hiện được nấm mộ vì lớp đất văn hóa phía trên đã bị san ủi. Phần lớn các ngôi mộ không còn dấu vết của hài cốt, chỉ có 2 mộ (mộ 76DCH2M3 và 79DCH1M10) còn lại một ít xương mũn nát.Tất cả các mộ được phát hiện đều không tìm thấy biên mộ. Kích thước đo được là nhờ việc xác định sự phân bố của các nhóm đá, nhóm gốm ở phía trên và vị trí của các đồ vật chôn theo nằm ở phía dưới và sự khác biệt về màu sắc của chất đất trong và ngoài mộ. Đất trong mộ do sự phân hủy của chất hữu cơ nên có màu đen và ẩm, đất ngoài mộ có màu nhạt và khô.Tất cả các mộ có hình chữ nhật, chiều dài trung bình 1,70m, rộng trung bình từ 1 - 1,5m, có độ sâu từ 30 - 89cm. Nhìn chung, những ngôi mộ được chôn khá tập trung, phần nhiều ở phía dưới chân sườn đồi và một số ít ở phía trên đỉnh đồi. Sự phân bố của các mộ cũng không theo quy luật nhất định. Trong số 40 mộ, có 7 mộ chôn theo hướng Bắc nam, 11 ngôi mộ chôn theo hướng Đông tây, 13 mộ chôn theo hướng Đông bắc - Tây nam, 7 mộ chôn theo hướng Tây bắc - Đông nam và 2 mộ không rõ hướng. Dựa vào đặc điểm của mộ có thể chia thành các loại hình mộ táng như sau.Loại mộ có rải đá và gốm: Phát hiện được 29 mộ là những mộ có bề mặt phía trên được xếp những hòn đá cuội, đá keo, xen kẽ trong đá có lẫn nhiều mảnh gốm vỡ vụn, sự sắp xếp đá gốm trong nấm mộ không theo quy luật nhất định như mộ 77 DCH2M6 (khai quật năm 1977, Dốc Chùa, hố 2, mộ 6) đá được xếp khá nhiều ở xung quanh, gốm ít và được rải ở khoảng giữa: mộ 79DCH1M7 trên bề mặt có xếp nhiều khối đá keo lớn, gốm ít và xen kẻ trong đá.Loại mộ rải gốm: Có 3 mộ, là những mộ được xếp gốm ở phía trên bề mặt, đó là gốm vỡ của một vài loại đồ đựng có kích thước lớn như chum, vại. Những mảnh gốm vỡ này cũng có kích thước lớn và khá dày, trên mặt ngoài của mảnh gốm có trang trí hoa văn in dập hình nan chiếu. Miệng gốm được tìm thấy có dáng loe, mép miệng cuốn tròn. Gốm trong mộ được xếp thành hai lớp, giữa có lớp đất mỏng. Qua việc phát hiện được các hiện vật gốm trong mộ chúng ta có thể hình dung người xưa đã đặt đồ gốm nằm ngang trong mộ rồi đập vỡ, tạo nên trên bề mặt mộ hai lớp gốm vỡ nằm sát nhau.Loại mộ đất: Phát hiện được 5 mộ, trên bề mặt không có hiện tượng rải gốm hay đá. Dấu vết các mộ thuộc nhóm này được xác định bởi các hiện vật tùy táng bằng đá, đồng, đồ gốm và sự khác biệt giữa chất đất bên trong và bên ngoài mộ. Trong quá trình khai quật nhận thấy không có hiện tượng xáo trộn hay san ủi. Do đó có thể nhóm mộ này chỉ được chôn rồi phủ đất lên trên.Nhóm mộ không xác định: Có 3 mộ, đây là những mộ bề mặt đã bị san ủi, được phát hiện bởi dấu vết của xương cốt đã bị mũn nát và các hiện vật tùy táng bằng đồng, đá và cả đồ gốm. Sau khi xử lý các mộ đã tìm thấy 253 hiện vật tùy táng, trong đó 64 hiện vật đá, 141 hiện vật bằng gốm và 48 hiện vật bằng đồng. Hiện vật chôn theo trong các mộ không cố định, có biên độ dao động lớn, có những mộ chỉ chôn theo một vài hiện vật nhưng lại có gần một nửa số mộ phát hiện được rất nhiều hiện vật tùy táng. Có thể đó là những dấu hiệu ban đầu của việc phân hóa giàu nghèo đã diễn ra trong cộng đồng.Phần lớn đồ tùy táng là các đồ gốm được sử dụng thường nhật, phát hiện nhiều trong khu vực cư trú như nồi, vò, chậu, bình, bát... tất cả chúng đã bị đập vỡ có thể do phong tục chôn cất.Đồ đồng cũng là một loại hình hiện vật được chôn theo khá nhiều, chủ yếu là các lưỡi rìu, giáo, lao...Có thể thấy đối với người cổ Dốc Chùa, người chết cũng được đối xử một cách yếu quý, họ được chia sẻ các đồ gốm dùng trong sinh hoạt thường ngày như nồi, vò, bát bồng và cả những hiện vật rất quý như việc chôn theo người chết những hiện vật bằng đồng, là những hiện vật mà ngay cả “thế giới người sống” tại Dốc Chùa cũng xuất hiện rất ít.Qua các hiện vật khai quật được, đặc biệt là các hiện vật tùy táng, có thể nhận thấy cư dân cổ Dốc Chùa đã có niềm tin vào một thế giới khác sau khi chết, hành động chôn cùng người chết các công cụ, vật dụng hàng ngày xuất phát từ niềm tin trên. Hiện vật bằng đồng thể hiện hình tượng một con vật đứng trên một con vật khác thuộc loài bò sát phải chăng những hiện vật mang tính thiêng, dùng trong nghi lễ nào đó, chưa từng được phát hiện ở các di tích nào khác ở Đông Nam bộ.Khu mộ táng Dốc Chùa có giá trị nghiên cứu nhất định về đặc trưng văn hóa mộ táng trong thời kỳ tiền sử ở lưu vực sông Đồng Nai. Trong tập hợp các ngôi mộ phát hiện được ở di tích Dốc Chùa đã có sự phân biệt giàu nghèo giữ các mộ nên hình như sự phân tầng xã hội đã hình thành ngay trong giai đoạn này. Như vậy, qua việc phát hiện mộ táng trong di tích Dốc Chùa cho chúng ta thấy một đặc trưng chung về giai đoạn lịch sử này là cộng đồng cư dân Bình Dương xưa kia đã có một truyền thống chôn cất người chết bằng dạng mộ rải đá, rải gốm trên bề mặt mộ sau khi đã sắp đặt người chết và xếp các đồ tùy táng vào trong huyệt mộ. Với việc phát hiện được khu mộ táng trong di tích Dốc Chùa nó đã góp một phần quan trọng trong bức tranh văn hóa thời tiền sơ sử ở miền Đông Nam bộ. TÀI LIÊU THAM KHẢO 1. Đào Linh Côn, Nguyễn Duy Tỳ, Địa điểm khảo cổ học Dốc Chùa, Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội, năm 1993.2. Bùi Chí Hoàng (chủ biên), Nguyễn Văn Quốc, Nguyễn Khánh Trung Kiên, khảo cổ học Bình Dương, từ tiền sử đến sơ sử.3. Tài liệu thuyết minh Bảo tàng Bình Dương.4. Sở Văn hóa - Thông tin Bình Dương, Ban Quản lý Di tích và Danh thắng. Di tích và danh thắng tỉnh Bình Dương, năm 2008.5. Hội Khoa học lịch sử tỉnh Bình Dương, Tập san số 03. www.sugia.vn |
Showing posts with label tỉnh Bình Dương). Show all posts
Showing posts with label tỉnh Bình Dương). Show all posts
Tuesday, March 13, 2012
Tìm hiểu về mộ táng trong di tích khảo cổ Dốc Chùa (Xã Tân Mỹ, huyệnTân Uyên, tỉnh Bình Dương)
Subscribe to:
Posts (Atom)
-
Mâm ( Vành) xe ô tô Tìm hiểu vật liệu chế tạo vành xe ô tô Sản xuất mâm bánh xe hơi Những vụ cháy xe ô tô không thể kiểm soát thườn...
-
Thơ ca: Chốt chặn cuối cùng của con người trước máy móc Giấy xanh, giấy đỏ, giấy vàng Tím, hồng, lam, lục ..chốc thành ông sao Ngôi sao năm ...
-
Công thức chế biến món gà rán lại ẩn chứa những bí quyết tuyệt vời trong lĩnh vực marketing kỹ thuật số và trong cuộc sống nói chung. K...
-
Đoán tính cách qua ngày sinh Ngày 1. Bạn rất hiếu kỳ, thích cống hiến, quan tâm đến việc đang làm và ít bị chi phối bởi những thứ k...
-
Những năm gần đây, nhiều người trẻ có xu hướng chọn “bỏ phố về quê” với mong muốn thoát khỏi nhịp sống tấp nập nơi thị thành, tìm kiếm chút ...