Showing posts with label Da Nang. Show all posts
Showing posts with label Da Nang. Show all posts

Saturday, March 24, 2012

Đào tạo kinh tế: Toàn cầu hóa nhiều hơn, Mỹ hóa ít hơn

Tác giả: NGUYỄN TUYẾN (THEO THE ECONOMIST)

http://vef.vn

Các trường kinh tế tự hào rằng việc sinh viên đến từ các nước khác nhau học chung với nhau sẽ buộc họ phải mở rộng tầm nhìn và kiểm định giả định của họ. Nhưng thực tế, họ đã thổi phồng mọi việc: đa dạng hóa giọng nói và màu da không nhất nhiết có nghĩa là đa dạng hóa thế giới quan.


Toàn cầu hóa từ đầu vào

Các doanh nhân thích buộc tội các viện kinh tế là chỉ được cái giỏi bốc phét. Nhưng khi toàn cầu hóa, các giáo sư đã có bắt đầu thực tế hơn nhiều.

Trong thập kỷ vừa qua, đào tạo kinh tế đã toàn cầu hóa toàn diện hơn bản thân kinh doanh. Điều này không chỉ có ý nghĩa với quyền lợi riêng của chính nó (các trường kinh tế là những doanh nghiệp lớn và là nền tảng đào tạo tầng lớp cấp cao toàn cầu). Nó cũng có ý nghĩa bởi vì phần còn lại của giới học viện rất có thể theo sau nơi các trường kinh tế đã dẫn đầu.

Một số trường kinh tế đã xây dựng khuôn viên trường tại phía bên kia thế giới. INSEAD, một trường của Pháp, dẫn đầu trào lưu này. Năm 2000, trường này khai trương một cơ sở xa hoa tại Singapore với các khoa đào tạo chính quy. Sinh viên có thể học MBA ngay tại Singapore hoặc Pháp và chuyển đổi giữa hai nước.

Khoảng 35-40% sinh viên là những "swithcers" (những người bắt đầu học tại một cơ sở và hoàn thành tại cơ sở khác), rất ít người là những "swinger" (những người dành hẳn một khoảng thời gian chỉ học ở một nước). Những trường lớn khác như trường Wharton thuộc Đại học Pennsylvania và trường Booth thuộc Đại học Chicago đã thành lập cơ sở tại nước ngoài cho các chương trình MBA dành cho các Giám đốc điều hành.

Các trường thiếu tiền hoặc không đủ danh tiếng muốn lập cơ sở tại nước ngoài có những sự lựa chọn khác. Rất nhiều trường kết nối với các đối tác nước ngoài. Trường Kinh doanh Quốc tế Châu Âu Trung Quốc (CEIBS) tại Thượng Hải hợp tác với trường Kinh tế Harvard và Wharton để giảng dạy chương trình MBA cho Giám đốc điều hành. Các trường cũng đưa ra "yêu cầu kinh nghiệm toàn cầu". Trường Kinh tế Ross thuộc trường Đại học Michigan yêu cầu các sinh viên MBA năm đầu phải dành bảy tuần làm việc ở nước ngoài.

Các trường học tốt nhất thế giới cũng đang toàn cầu hóa đầu vào. Năm 2008, khoảng 34% sinh viên trong 55 chương trình MBA hàng đầu của Mỹ (được xếp hạng bởi Financial Times) là sinh viên nước ngoài và 85% thuộc top 55 khóa học hàng đầu tại các nước châu Âu (con số giảng viên nước ngoài là 26% với Mỹ và 46% với châu Âu). Các tổ chức ít học viên nước ngoài hơn cũng đang quốc tế hóa. Viện thống kê UNESCO tính toán rằng trong năm 2007, gần một phần tư số sinh viên học tập tại nước ngoài đều theo học ngành kinh doanh - nhiều hơn hẳn so với bất kỳ ngành học nào khác.








Đồng thời, các nền kinh tế mới nổi đang xây dựng các trường kinh tế với tốc độ nhanh chóng. Hiệp hội các trường kinh tế tiên tiến tính được có hơn 13.000 trường cấp bằng kinh doanh trên thế giới. Trung Quốc và Ấn Độ có 2.700 trường với nhau, hầu hết trong số đó được thành lập từ năm 1990. Vào năm 1997, các trường đại học đưa ra 74 khóa học kinh tế mới, vào năm 2007 họ thành lập 641 khóa. Các trường học trên thị trường mới nổi tốt nhất quyết tâm đi ra toàn cầu (hoặc ít nhất trong khu vực) vì quyền lợi của chính mình: CEIBS đã tăng lượng sinh viên nước ngoài từ 10% năm 2002 tới 40% năm 2009 và hy vọng sẽ tạo được một Ivy League cho phương Đông.

Sự toàn cầu hóa đột ngột của giáo dục kinh doanh có những nhược điểm. Nhược điểm rõ ràng nhất là kiểm soát chất lượng . Toàn cầu hóa cũng đẩy các chi phí vốn đã cắt cổ của việc đào tạo kinh tế lên cao. Gửi sinh viên ra ngước ngoài, tiến hành các nghiên cứu quốc tế và cạnh tranh với các học viện tốt nhất trên thị trường lao động không biên giới là tốn kém. Tồi tệ nhất, toàn cầu hóa, biệt ngữ quản lý nghĩa là từ "tư duy 360 độ" đến "nấc thang chiến lược", lan rộng qua các biên giới như dịch cúm gia cầm.

Toàn cầu nhiều hơn, Mỹ hóa ít hơn

Các trường kinh tế tự hào rằng việc sinh viên đến từ các nước khác nhau học chung với nhau sẽ buộc họ phải mở rộng tầm nhìn và kiểm định giả định của họ. Nhưng thực tế, họ đã thổi phồng mọi việc: đa dạng hóa giọng nói và màu da không nhất nhiết có nghĩa là đa dạng hóa thế giới quan. Cho dù họ đến từ đâu, các sinh viên MBA toàn cầu có xu hướng trở thành công dân quốc tế nói nhiều thứ tiếng. Hòa nhập với những công dân quốc tế khác trên nhiều châu lục có thể đánh lừa họ với suy nghĩ rằng thế giới bao gồm phần lớn những người như họ, trong khế giới không hề như vậy.

Tuy nhiên, lợi ích của đào tạo kinh tế toàn cầu vượt xa những nhược điểm đó.

Kinh doanh đang toàn cầu hóa: tỷ lệ các công ty trong số 500 công ty lớn nhất thế giới xuất phát từ các thị trường mới nổi đã gấp đôi trong vòng 5 năm, từ 8,2% trong năm 2005 đến 17,4% trong năm 2010. Các trường kinh doanh không có lựa chọn nào khác ngoài việc phải thích ứng với xu hướng chung. Các trường tốt nhất đang truyền bá xa và rộng các tiêu chuẩn cao của họ. IESE của Tây Ban Nha đã giúp thành lập các trường kinh tế trên 15 nước khác. CEIBS của Trung Quốc đã thành lập một trường tại Ghana.

Các trường địa phương luôn điều chỉnh chương trình giảng dạy hợp với hoàn cảnh địa phương: Trường quản lý Moscow, Skolkovo đưa ra chương trình MBA lấy trọng tâm là đối phó với tham nhũng. Toàn cầu hóa gia tăng lựa chọn: Singapore chỉ có 4 trường đại học hoàn toàn là địa phương cấp bằng kinh doanh nhưng người Singapore có thể lựa chọn giữa 70 tổ chức quốc tế cấp bằng thông qua một số hình thức nhượng quyền.

Khi giáo dục kinh doanh trở nên toàn cầu hóa nhiều hơn thì nó cũng ít mang tính chất Mỹ hơn. Mãi đến gần đây, ngành này vẫn bị thống trị bởi các trường kinh tế Mỹ giảng dạy các ví dụ kiểu Mỹ. Hiện tại hơn một phần ba các trường hợp nghiên cứu giảng dạy trong các khóa học chiến lược tại các trường đại học Mỹ là của công ty nước ngoài. Và trong số những người châu Á tham dự cuộc kiểm tra GMAT (các trường Mỹ sử dụng GMAT để lựa chọn sinh viên), tỷ lệ những người sau đó nộp đơn học tại Mỹ giảm từ 85% trong năm 2001 xuống 67% trong năm 2009.

Một giải siêu đấu toàn cầu của các trường kinh doanh đang nổi lên, gồm vài trường ở châu Âu và châu Á cũng như Mỹ. Tất cả đều cạnh tranh khốc liệt để giành sinh viên và nhân viên ở khắp mọi nơi (những người có uy tín bay đến mọi nơi theo chỉ thị của những người trả giá cao nhất). Sự sùng bái MBA đang toàn cầu hóa: các cử nhân tương lai từ Boston đến Bắc Kinh đến Bangalore đang dành những năm đầu định hướng say sưa lắng nghe, cho dù sâu sắc hay không, thuyết quản lý của Pierian.

Phục hồi dữ liệu thật dễ với Get Data Back

Chỉ với 5 bước là bạn có thể khôi phục các dữ liệu lỡ tay delete hay do những người ngoại đạo vọc nhầm. Bạn có thể download phiên bản dùng thử cho FAT và NTFS ( dung lượng 2.11MB và 2.08MB ) tại www.runtime.org . Chương trình có thể phục hồi dữ liệu đã xoá từ HDD, ổ mềm, ZIP, ổ đĩa mạng.

Các bạn có thể Download phiên bản 3.63 tại đây : http://www.mediafire.com/?mcfc2k72cs6ykny
Bước 1: Quét các ổ đĩa hiện có.

Bước 2: Chọn phân vùng định dạng tương ứng ( FAT hay NTFS tuỳ phiên bản ) để chương trình truy xuất file phục hồi.

Bước 3: Tại bước này bạn có thể tuỳ chọn chế độ quét file theo từng size hay luôn cả HDD. Nếu chọn Search Entire Drive để chương trình quét toàn bộ HDD hiện có để tìm phân vùng định dạng tương ứng, chọn Search Patial Drive để thực hiện chế độ quét từng sector trên phân vùng đã chọn từ bước 2.

Bước 4: Sau khi chương trình quét xong, đây là bước kết quả. Bạn tuỳ chọn vào từng phân vùng đã chọn (nếu trên HDD có nhiều hơn một phân vùng định dạng giống nhau) để chương trình hiễn thị hệ thống file đã xoá.

Bước 5: Các file đã xoá sẽ hiển thị trên cây thư mục. Giờ thì bạn chỉ việc copy file bày và lưu lại vào HDD để hoàn tất.

Một vài lưu ý khi sử dụng chương trình này:

Phiên bản dùng thử không cho bạn copy những file đã xoá về lại HDD. Để chương trình hoạt động hiệu quả, bạn nên đánh dấu chọn tất cả trong mục Options như Recover Deletes Files, Allow Duplicate File Names, Recover Losts Files .

Ngoài ra bạn cũng có thể xem các định dạng file trong mục Legend. Bạn cũng có thể chọn search để tìm kiếm file đã mất. Điều này giúp bạn nhanh chóng tìm ra file mình cần phục hồi nhanh chóng hơn. Hơn nửa chương trình còn giúp bạn tạo file ảnh cho HDD để sao lưu dữ liệu bằng công cụ Tools > Create Image File.

Hi vọng chương trình thật sự hữu ích trong việc phục hồi dữ liệu của bạn.

Phạm Lê Minh Định-Thanh_Nien

10 nguyên nhân thất bại của doanh nghiệp nhỏ

Một trong những khía cạnh khó hiểu nhất trong việc khởi nghiệp là tại sao các doanh nghiệp nhỏ lại thất bại. Có một nguyên nhân rất dễ hiểu cho sự mơ hồ này: Phần lớn bằng chứng đều tới từ bản thân người khởi nghiệp.

Tôi đã có một cái nhìn cận cảnh với nhiều thất bại của các doanh nghiệp – trong đó có một số doanh nghiệp là của chính bản thân tôi. Và theo quan sát của tôi, những nguyên nhân thất bại được các chủ doanh nghiệp chỉ ra thường không đi thẳng vào vấn đề, và chúng chỉ có nghĩa khi bạn suy nghĩ về chúng. Nếu các chủ doanh nghiệp thực sự biết họ sai ở đâu, họ đã có thể sửa sai. Thường thì vấn đề chỉ đơn giản do sự phủ nhận hoặc không biết đến những điều bạn không biết.

Trong nhiều trường hợp, khách hàng – mà nói đúng hơn là khách hàng cũ – hiểu vấn đề rõ hơn chủ doanh nghiệp. Các chủ doanh nghiệp thường có xu hướng nghi ngờ và đổ tội lên ngân hàng, chính phủ hay các đối tác kém cỏi. Họ hiếm khi tự chỉ tay vào chính mình. Dĩ nhiên, cũng có những trường hợp mà vấn đề nằm ngoài kiểm soát của chủ doanh nghiệp, nhưng theo tôi thấy thì đó chỉ là số ít. Tiếp theo đây, dựa trên kinh nghiệm và quan sát của tôi, là 10 do khiến các doanh nghiệp nhỏ thất bại. Danh sách này không được mỹ miều gì cho lắm, nó cũng không đơn giản, và không chứa bất cứ mối nghi hoặc thường có nào (biết đâu những mối nghi hoặc này có thể được xếp hạng 11, 12 hay 13).

1. Bài toán không hoạt động. Không có nhiều nhu cầu cho sản phẩm và dịch vụ ở mức giá đủ để mang lại lợi nhuận cho công ty. Ví dụ như việc một công ty mới lập lại đi cố gắng cạnh tranh với Best Buy và tính kinh tế theo quy mô của nó.

2. Chủ doanh nghiệp không thể tìm ra cách riêng cho mình. Có thể họ ngoan cố, ngại rủi ro, sợ mâu thuẫn – và thế có nghĩa là họ cần phải “giống tất cả mọi người” (thậm chí cả những nhân viên hay những người bán rong không được việc). Họ có thể là người theo chủ nghĩa hoàn hảo, tham lam, tự cho mình là đúng, bị hoang tưởng, hay cáu giận và luôn bấp bênh. Đôi khi, thậm chí bạn có thể giải thích vấn đề cho những người này, và họ nhận ra là bạn đúng – nhưng họ sẽ vẫn tiếp tục mắc sai lầm tương tự.

3. Tăng tưởng ngoài kiểm soát. Đây có lẽ là lý do đáng buồn nhất trong mọi lý do thất bại – một doanh nghiệp đang thành công bỗng chốc phá sản chỉ vì quá phát triển. Nguyên nhân gồm có chuyển hướng sang một thị trường kém lợi nhuận hơn, vấp phải sự nhức nhối tăng trưởng hủy hoại doanh nghiệp, hay vay mượn quá nhiều với ý đồ duy trì tỉ lệ tăng trưởng cao. Thế nên, đôi khi chậm hơn lại tốt.

4. Kế toán yếu kém. Bạn không thể kiểm soát được doanh nghiệp nếu bạn không biết chuyện gì đang xảy ra với nó. Với những con số tồi tệ, hoặc chả có con số nào, một công ty sẽ như bị mù đường, và điều này lúc nào cũng xảy ra. Tại sao ư? Vì một lý do, đó là một quan niệm sai phổ biến – và tai hại – rằng một công ty kế toán thuê ngoài vốn dĩ để giải quyết vấn đề thuế má sẽ trông chừng được công ty. Thực ra, đây là việc của giám đốc tài chính, nhưng lại là một trong nhiều chiếc mũ chụp tạm lên đầu chủ doanh nghiệp cho đến khi công ty thuê được đúng người làm việc này.

5. Thiếu tiền mặt dự phòng. Nếu chúng ta có rút ra được bài học nào trong đợt suy thoái này (tôi biết là nó đã qua nhưng khách hàng của tôi hình như chưa nhận ra điều đó), thì đó là doanh nghiệp có chu kì và chuyện không hay sẽ vẫn diễn ra – như là việc mất đi một khách hàng quan trọng hay nhân viên chủ chốt, sự xuất hiện đối thủ cạnh tranh mới, hay một đơn kiện. Những điều này đều có thể gây áp lực lên tài chính công ty. Một khi công ty đã hết tiền (cũng như khả năng vay mượn), nó sẽ không còn khả năng phục hồi.

6. Ngành nghề tầm thường. Tôi chưa từng gặp một chủ doanh nghiệp nào mà lại nói hoạt động của mình là tầm thường. Nhưng tất cả chúng ta không thể cùng đứng trên mức trung bình được. Hầu hết các doanh nghiệp chủ yếu là lặp lại và tham khảo, cũng như mức độ tiếp thị của họ vậy (tùy thuộc vào công việc)

7. Hoạt động thiếu hiệu quả. Trả quá nhiều tiền cho văn phòng, nhân viên và nguyên vật liệu. Giờ đây các công ty nghèo có lợi thế hơn bao giờ hết. Không có các điều khoản đàm phán vững chắc phản ánh tình hình kinh tế hiện nay có thể khiến công ty trở nên thiếu cạnh tranh.

8. Quản trị kém. Thiếu tập trung, tầm nhìn, kế hoạch, tiêu chuẩn hay bất cứ thứ gì khác góp phần làm nên quản trị tốt. Cộng thêm đối tác khiêu khích và họ hàng rầu rĩ vào đống hổ lốn ấy, bạn sẽ thực sự gặp thảm họa.

9. Thiếu kế hoạch liên tục. Chúng ta đang nói về việc gia đình trị, về những tranh đấu quyền lực, về việc những nhân vật chủ chốt bị thay thế bởi những người không đủ năng lực – hay tất cả những lý do khiến một doanh nghiệp gia đình không thể thành công cho đến thế hệ sau.

10. Thị trường xuống dốc. Cửa hàng sách, cửa hàng âm nhạc, doanh nghiệp in ấn và nhiều doanh nghiệp khác đang phải đương đầu với những thay đổi trong công nghệ, nhu cầu khách hàng, và sự cạnh tranh từ các công ty lớn với sức mua lớn hơn và nhiều tiền quảng cáo hơn.

Trong cuộc sống, bạn có thể tha thứ cho bạn bè và họ hàng, nhưng những nhà khởi nghiệp thì hiếm khi tha thứ. Suy cho cùng, mọi thứ đều xuất hiện vấn đề. Nếu mọi người thấy chán, nhân viên sẽ ngừng làm việc cho bạn, và khách hàng thì ngừng giao dịch với bạn. Và đó là lý do tại sao các doanh nghiệp thất bại.

www.saga.vn

Friday, March 23, 2012

Rack Mount server là gì ?

Rack Mount server là gì ?



Là nhữnng computer server, thường là high performance, được gắn trên các chassis (khung) có các kích thước tiêu chuẩn và có thể kéo ra lắp vào (installation) dể dàng như một hộc tủ. Các Rack-mount server thì thường là nằm ngang trong khi các Blade server thì là dựng đứng dù là cũng kéo ra kéo vô khi cần bảo trì.

Các server có thể xài CPU từ Intel (Xeon, IA64 Itanium), AMD (AMD) và Sun (Sparc). Đôi khi hai cái máy xem có vẽ hoàn toàn khác nhưng thực sự bên trong rất giống nhau, đôi khi chỉ khác các CPU và cái 'North Bridge' nối liền CPU (bộ não) với memory (bộ nhớ).

Các Rack-Mount server đều được sắp hạng dựa trên đơn vị gọi là 1U (1U, 2U, 3U, 4U, 5U, 6U, 7U)

1U là đơn vị nhỏ nhất của một rack-mount server dựa trên (W, H, D)
Width=bề rộng, Height=Bề cao, Depth=Chiều sâu. W và H đều 'standard' tức là đều có tiêu chuẩn giống nhau dù là do hãng nào làm ra. Chiều sâu thì có thể khác nhau.

1U 

19" x 1.75" x 17.7"
19" x 1.75" x 19.7"
19" x 1.75" x 21.5"

2U 

19" x 3.5" x 17.7"
19" x 3.5" x 20.9"
19" x 3.5" x 24"

3U 
17.1" x 5.1" x 25.5"

4U
19" x 7" x 17.8"
19" x 7" x 26.4"

5U
19" x 8.34" x 19.67"
19.1" x 8.75" x 26.4"

6U
19" x 10.5" x 19.5"

7U
17" x 12.2" x 19.8"

Như vậy thì cái 2U server sẽ dầy gấp 2 cái 1U server, cái 4U server sẽ dầy gấp 4 lần cái 1U server, và khả năng (performance) thì cũng có thể tính tương tự như vậy.

Khá năng của 1U server ngày nay "thường" là 2 CPU unit (multi core), 16 DIMM (4 Gig Memory cho mổi DIMM), 4 NIC (Network Interface Card), 4 HD (Hard Drive), 2 Power Supply, 8 Fan (quạt), ... và đại loại vài USB slots, DVD, ... Ngày nay 1 CPU unit có tới 4 core (quad-core) nhưng con số nầy sẽ còn tăng lên. Sun Microsystems còn có một khái niệm mới là trong mổi 'core' còn có tới 16 'thread', mổi 'thread' có thể coi như 1 đơn vị 'processor' nhỏ nhất.

Các rack-mount server đều có nhiều bộ phận có khả năng hot-plug (nghĩa là có thể lấy ra và lắp vào không cần tắt máy) và redundancy (một cái hư vẫn có các cái khác chạy). Nhìn vào thành phần sắp xếp (configuration) ở trên thì sẽ thấy nếu có một cái Power Supply bị hỏng, thì ít ra còn có một cái kia chạy, nếu có vài cái fan (quạt) bị hỏng thì củng còn vài ba cái khác chạy. 1 CPU unit bị hư thì cũng còn cái kia chạy, 1 cái memory DIMM bị hư thì có thể thay mà không cần tắt máy.

Các CPU nầy đều hot-plug, tức là mình có thể thay nó mà không phải tắt máy. Các HD (ổ cứng) củng như vậy, Fan (quạt) cũng vậy.

Đa số các bộ phận đều slot-mount tức là không có dây nhợ gì cả, chỉ việc rút ra hay cắm vào khi muốn thay thế.

Vì vậy các Rack-mount server rất gọn, nhẹ và ít tốn chỗ.

Đây là một vài tấm hình của một loại rack-mount server kích thước 1U. Cái 2U sẽ có độ dày gấp đôi.



Nếu khách hàng muốn có thêm nhiều HD và network thì có thể mua tuỳ chọn các model chassis như sau:

Loại 1U gắn được 2HDD :
Và 1U hỗ trợ 2HDD hotswap :
Đến loại 1U gắn được 4HDD hotswap :
Tương tự 2U cũng có thể có HDD từ 6HDD, 8HDD, 12HDD ..

Các đặc điểm của các server:
RAS (R= reliability=độ tin cậy, A=Availability=độ sẳn sàng, S=Security=độ an toàn) rất cao.
R=Độ tin cậy 3 số 9s hay 4 số 9s (99.9% hay 99.99%) tức là khả năng không bị chết máy (system crash hoặc hang)
A=Availabilty, có thế thay thế các bộ phận hư mà không cần tắt máy (hot plug, redundancy)
S=Security, không bị hack (virus, network attack, ...)

Khi muốn sữa chữa, các rack-mount nầy được kéo ra khởi cái slot (ô) của cái chasis (khung) giống như mình kéo một cái hộc tủ ra vậy, rất đơn giản và dể bảo trì.

Ngày nay một vấn đề lớn luôn được quan tâm đó là lượng điện tiêu thụ của các server nầy. Nếu ai đã từng làm trong các phòng lab (thí nghiệm) nhiều năm thì chắc biết, ngày xưa các phòng lab lạnh cóng vì máy lạnh cực mạnh được mở liên tục để giảm nhiệt (cool down), vào làm phải mặt vài lớp áo, nhưng ngày nay thì hầu như chỉ là một phòng điều hòa (A/C Air Conditioning) bình thường mà thôi.

Các phần mềm (software) chạy trên các server nầy đều có các khả năng report (tường thuật) chính xác các bộ phận bị hỏng, gới email tới system admin báo cáo, có khả năng shutdown (tắt) một bộ phận nào đó nếu bị nóng (overheat).

Sở dỉ điều này xảy ra được là vì các server nầy đều có rất nhiều 'sensor' và 'indicator (LED)'. Các 'sensor' và 'indicator (LED)' nầy luôn đo các độ Voltage, Current, RPM (fan), Power (watts), ... thường trực. Nếu có một sensor bị hỏng thì các phần mềm sẽ biết ngay và sẽ tắt (Off line) bộ phận đó đẻ ngăn chận các hư hỏng có khả năng tai hại hơn. Indicator (LED) tức là các cái đèn có thể đỏ lên, chớp (blink) để báo hiệu một bộ phận bị hư. Các 'sensor' và LED nầy đều có thể theo dõi qua Internet, tức là ngồi nhà gõ X-cà vẫn có thể biết được tình trạnh máy móc ra sao, khỏi cần phải có mặt tại hãng.

Các server nầy đều có thể được tắt mở (power off/on) từ xa qua remote console. Sở dĩ điều nầy làm được là vì các server nầy có các buil-in Service Processor nhưng hoạt động độc lập và luôn canh chừng (monitor) phần máy chủ (Host) của cái rack-mount server.

Cái Service Processor nầy có thể coi như là một cái built-in PC nhỏ nắm trong cái server và một số chạy bằng Embedded Linux (ví dụ như Server của Sun Microsystems) và có IP của riêng nó, do đó khách hàng có thể log vào đó để theo dỏi các sự cố của máy chủ.

Giá cúa các server nầy thay đổi rất nhiều tùy theo 'configuration', có thể từ 1500 đô tới 15000 đô và lên cả vài trăm ngàn cho các 5U và cộng hết cả các IO expansion unit.

Các kỹ sư VN tại Mỹ làm về ngành nầy không ít, cả phần dẽo (firmware), phần mềm (platform software) và phần cứng (hardware) và có nhiều hand-on experience (kinh nghiệm trực tiếp).

Nếu google về rack mount server thì chúng ta sẽ thấy có rất nhiều các công ty làm về các loại nầy. Tôi thật cũng không hiểu các công ty nầy có cạnh tranh nổi với các hãng gộc như IBM, HP, Dell, Sun, ... hay không.
Các bộ phận phần cứng của các rack-mount server nầy được design và test (thử nghiệm) bởi các kỹ sư ở Mỹ nhưng chế tạo và lắp ráp thì lại làm ở các nước khác chủ yếu là TQ và Mexico vì giá nhân công ở đó rất rẽ. Phần dẽo và phần mềm thì hầu hết vẩn làm ở Mỹ.

Một yếu tố vô cùng quan trọng trong kỹ nghệ computer ngày nay đó là industry specification, standard và open source.

Ngày nay lắp ráp một high performance server (server cao cấp) đã đơn giản hơn xưa nhiều vì các bộ phận cả phần cứng (hardware) lẩn phần dẻo (firmware) và phần mềm (software) đều tuân theo các 'specification' (nguyên tắc kỹ thuật), 'industry standard' (tiêu chuẩn kỹ thuật) do các công ty lớn họp lại và soạn ra. Các công ty nầy dù cạnh tranh đến đổ máu nhưng các nhân viên đầu não của họ vẩn ngồi làm việc với nhau để đưa ra các nguyên tắc và tiêu chuẩn ('specification' và 'standard') để có lợi cho nhau, giảm thiếu sự phức tạp và mâu thuẩn, tăng cường độ 'phù hợp' (compatibility) và giúp cho kỹ thuật luôn tiến triển, góp phần vào sự tăng trường của kinh tế, không phải chỉ của Mỹ mà của cả thế giới.

Tại VN hiện nay có NTC là công ty chuyên nghiệp về máy chủ, NTC có được một đội ngũ kỹ thuật đã được đào tạo bài bản về kỹ nghệ server rack này của Intel với nhiều năm kinh nghiệm cung cấp máy chủ cho môi trường 24/7. Và NTC đang là nhà phân phối nhiều nhãn hiệu máy chủ, thiết bị lưu trữ, linh kiện máy chủ hàng đầu thế giới : Supertalent, Supermicro, Qnap, Promise, SilverStone, Zippy .. và máy chủ LifeCom chuyên dụng đã được đăng ký nhãn hiệu.

Tương lai, các dòng máy chủ Rack sẽ ngày càng rẽ, tuy nhiên điều nầy chỉ có được khi các nhà máy sản xuất chip, motherboard và lắp ráp các server được thành lập tại VN trước do nhân công rẽ, bước kế tiếp là tự sáng chế (design), làm ra sản phẩm của riêng mình bằng cách tự lắp ráp, gắn phần mềm và test (thử nghiệm). Không cần phải sản xuất tất cả các bộ phận ở VN. Có nhửng bộ phận có thể mua từ các nước khác và lắp ráp bởi vì như đã nói ở trên, khi các bộ phận nầy tuân theo các industry 'specification' và 'standard' thì tự nhiên chúng có thể gắn vào với nhau và khởi động một các tự nhiên. Một công ty muốn sản phẩm của mình bán chạy thì phải bảo đảm được điều nầy.

Hiện nay bên Telecom thì họ cũng đã giảm bớt Rack Server và chuyển sang dạng mới là ATCA (Advanced Telecom Computing Architecture), dạng chassis mới này có độ cao khoảng 10 - 12U server nhưng có thể power 14 blade. Trên mỗi một blade có từ 1 - 4 CPU loại multicore. Vói chassis loại này vấn đề cấu hình cho failover hay redundance rất thuận tiện. Nói chung với những tính năng mới này, 1 chassis loại này có khả năng tính toán và xử lý thông tin vô cùng khủng khiếp. Lấy ví dụng Blade của Sun có thể xử lý 10Gb/s trên 1 blade. Với 1 chassis sử dụng 12 blade và 2 blade cho monitoring và control. 1 chassis này có thể xử lý 120Gb/s...

Đơn vị "U" là gì ? 

1U = 1,75 inch = 1,75 x 2,54 cm (1 inch = 2,54cm), là đơn vị mà các nhà sản xuất quy ước dùng để đo chiều cao của thiết bị. Khi tài liệu ghi switch/hub/router/server 1U có nghĩa là chúng có chiều cao 1U. Nếu quan sát các thiết bị như switch, hub, router, server... dành cho doanh nghiệp (không phải loại dành cho gia đình, văn phòng nhỏ), bạn sẽ thấy chiều cao của chúng là bội số của U, chẳng hạn 1U, 2U, 4U, 5U...

Theo NhatTienChung