Showing posts with label nguoidentubinhduong.blog. Show all posts
Showing posts with label nguoidentubinhduong.blog. Show all posts

Tuesday, May 05, 2020

Câu hỏi muôn thuở : Vì sao lập trình viên nữ ngày càng vắng bóng?

Câu hỏi muôn thuở : Vì sao lập trình viên nữ ngày càng vắng bóng?



Ít ai biết rằng trước khi trở thành công việc đặc thù của nam giới, phụ nữ là những người đi tiên phong trong lĩnh vực lập trình.
Một trong những tượng đài ngành công nghiệp phần mềm thế giới là Jean Jennings Bartik (1924 – 2011). Bà đã có công lớn trong việc cho ra đời ENIAC (Electronic Numerical Intergrator and Computer) – siêu máy tính trong Thế chiến thứ II.   
Giống với phần đông nữ giới những năm 1930-1940, Jean Jennings Bartik có niềm đam mê sâu sắc với toán học. Trong lúc chiến tranh nổ ra ác liệt nhất, bà và những đồng nghiệp nữ khác đã làm việc như những chiếc “máy tính” thực thụ khi tính toán quỹ đạo bay của đại bác và tên lửa quân sự dựa trên độ cao góc bắn hoàn toàn theo cách thủ công.
Mỗi loại vũ khí khác nhau đòi hỏi một bảng tính quỹ đạo riêng biệt. Để hoàn thành một bảng tính như vậy, Bartik và những đồng nghiệp phải làm việc liên tục trong hơn 30 giờ đồng hồ.
Lần đầu tiên Bartik biết đến dự án ENIAC vào năm 1945. Dù không hiểu rõ công việc mình đang làm song bà đã không do dự nhận lời tham gia với hy vọng chấm dứt cuộc chiến dai dẳng bằng công nghệ hiện đại.
Vi sao lap trinh vien nu ngay cang vang bong? hinh anh 1
Những nữ lập trình viên vận hành ENIAC bằng cách cắm và rút dây cáp, điều chỉnh các thiết bị chuyển mạch. Ảnh: Getty Images.
 “siêu máy tính điện tử” đầu tiên lúc bấy giờ, ENIAC có thể thực hiện phép tính quỹ đạo và cho kết quả nhanh hơn nhiều so với việc tính toán bằng tay. Mặc dù nam giới thiết kế ra ENIAC, song họ cho rằng việc viết các chương trình hoạt động trên cỗ máy này thật tẻ nhạt và chỉ dành cho nữ giới – giống như công việc văn thư vậy.
Trao đổi với đài phát thanh NPR, nhà sử học Walter Isaacson nhận định: “Nam giới sở hữu sự khéo léo để chế tạo ra phần cứng. Tuy nhiên, phụ nữ mới là những nhà toán học giỏi để tạo ra phần mềm – linh hồn của các thiết bị – dù công việc này bị xem nhẹ và không được trả công xứng đáng”.
Đêm trước khi ENIAC có màn trình diễn đầu tiên trước công chúng, nó đã gặp phải một số hỏng hóc nghiêm trọng. Chính Bartik và người đồng nghiệp Betty Snyder đã khắc phục và khiến ENIAC hoạt động trở lại.
Kết quả thành công ngoài mong đợi: ENIAC đã tính toán quỹ đạo của tên lửa chỉ trong vòng 20 giây, ít hơn 10 giây so với thực tế. Điều này khiến công chúng cực kỳ mãn nhãn và thích thú. Đáng tiếc, sau sự kiện, Bartik và Snyder không hề được nêu tên hay có mặt trong các bức hình của báo giới. Thậm chí, họ còn không được mời đến bữa tối ăn mừng ngày hôm sau.
Vi sao lap trinh vien nu ngay cang vang bong? hinh anh 2
Jean Jennings Bartik (trái) trong lúc sử dụng bảng điều khiển chính của ENIAC. Ảnh:Wikimedia.
Khi chiến tranh qua đi, Bartik và đội ngũ “ENIAC Girls” gồm 6 người phụ nữ khác đã cùng nhau làm việc với UNIVAC (UNIVersal Automatic Computer) – một trong những máy tính thương mại đầu tiên của thế giới. Tại đây họ đã gặp nữ quân nhân hải quân dự bị, người sau này trở thành nhà khoa học máy tính lỗi lạc – Grace Hopper.
Trong lúc miệt mài tìm kiếm cách thức làm việc hiệu quả hơn với máy tính, Hopper đã sáng tạo ra một phương pháp lập trình máy tính mới với các từ thay vì những con số. Năm 1959, bà cho ra đời COBOL – ngôn ngữ lập trình cho phép các nhà khoa học viết lệnh máy tính bằng tiếng Anh.
Cho tới ngày nay, COBOL vẫn được sử dụng rộng rãi, đặc biệt là các ngân hàng và chính phủ. Nó có khả năng hoạt động trên hầu như bất kỳ nền tảng nào và cực kỳ thích hợp khi sử dụng cùng các con số. Vì vậy, không khó hiểu khi COBOL được dùng trong hầu hết giao dịch kinh doanh. Mỗi lần người dùng quẹt thẻ tín dụng hoặc giao dịch đầu tư bảo đảm, đều có sự góp mặt của COBOL.
Vào những năm 50, có 30–50% nữ giới làm công việc của lập trình viên. Điều này được cho là hết sức tự nhiên, đến nỗi tạp chí Cosmopolitan còn đăng tải bài viết với tựa đề “Computer Girls” (Những cô gái máy tính) vào năm 1967.
Vi sao lap trinh vien nu ngay cang vang bong? hinh anh 3
Phụ nữ từng được coi là người nắm giữ tương lai của ngành khoa học máy tính. Ảnh: Cosmopolitan.
Nghề lập trình dần được coi trọng và trở thành một trong những công việc vất vả nhất về mặt trí tuệ, dĩ nhiên, tiền lương từ đó cũng được tăng lên đáng kể. Theo nhà sử học Nathan Ensmenger, nam giới bắt đầu quan tâm tới công việc này và tìm mọi cách để gia tăng uy tín trong nghề. Họ thành lập các tổ chức nghề nghiệp, tìm kiếm các yêu cầu khắt khe hơn khi tham gia vào lĩnh vực này.
Nhiều tờ báo đã lên tiếng chỉ trích các thói quen không tốt của phụ nữ như tán gẫu, lãng phí thời gian và dễ mắc lỗi là lý do khiến họ không thích hợp trong công việc. Nam giới lúc này trở nên “vụt sáng” và được coi là sự lựa chọn hàng đầu cho công việc lập trình.
Vào thời điểm những năm 80, máy tính cá nhân bắt đầu xuất hiện. Hình mẫu lý tưởng của lập trình viên được đóng khung trong hình ảnh của Steve Jobs hay Bill Gates. Hơn thế nữa, những bộ phim đình đám thời bấy giờ như Weird Science, War Games, hay Real Genius lại càng góp phần tô đậm hình tượng này. Thậm chí các nhà sản xuất trò chơi điện tử, máy tính cá nhân còn mặc định đối tượng khách hàng hướng tới là trẻ em nam và nam giới.
Tất cả khiến hình thành định kiến trong tâm trí mọi người về văn hóa công nghệ với lực lượng lao động chính là các đấng mày râu.
Theo nghiên cứu của Jane Margolis thuộc Đại học Carnegie Mellon, các gia đình có xu hướng mua máy tính cho con trai hơn là cho con gái. Việc tuyển sinh ở các trường đại học công nghệ cũng tương tự khi ưu tiên học sinh nam thay vì học sinh nữ. Cơ hội việc làm vì thế cũng có sự chênh lệch theo.
Đến năm 2011, tỷ lệ phụ nữ tham gia các chương trình khoa học máy tính đã giảm xuống còn 17%. Ngày nay, chỉ có 6,7% nữ giới có bằng khoa học, công nghệ, kỹ thuật hoặc toán học (STEM) so với 17% ở nam giới.
Chủ đề bình đẳng giới chưa bao giờ thôi nóng trong các cuộc bình luận. Dù vẫn còn nhiều khó khăn, song phụ nữ hiện đại vẫn đang từng ngày chứng minh không thể thay thế qua năng lực và khả năng của bản thân trong tất cả các lĩnh vực ngành nghề.
Theo : Zingnews

Thank you so much

MIT tạo hệ thống mô phỏng huấn luyện xe không người lái


MIT tạo hệ thống mô phỏng huấn luyện xe không người lái


Một hệ thống do MIT phát triển có thể huấn luyện xe không người lái trong một thế giới mô phỏng với vô hạn các khả năng điều khiển xe, qua đó giúp những chiếc xe học cách điều hướng và xử lý các tình huống xấu trước khi chạy thật trên đường.

Một hệ thống mô phỏng được phát minh tại MIT tạo ra một thế giới mô phỏng với vô hạn khả năng điều khiển, giúp những chiếc xe học cách điều hướng trong một loạt các tình huống xấu.nguoidentubinhduong
Một hệ thống mô phỏng được phát minh tại MIT tạo ra một thế giới mô phỏng với vô hạn khả năng điều khiển, giúp những chiếc xe học cách điều hướng trong một loạt các tình huống xấu.

Các hệ thống điều khiển, hay còn gọi là “bộ điều khiển”, cho các phương tiện tự động chủ yếu dựa vào các bộ dữ liệu trong thế giới thực về quỹ đạo lái xe từ người lái xe. Từ những dữ liệu này, chúng bắt chước cách điều khiển xe an toàn trong nhiều tình huống khác nhau. Nhưng có rất ít dữ liệu trong thế giới thực về các trường hợp cận kề nguy hiểm, chẳng hạn như xe suýt va chạm hoặc bị ép ra khỏi làn đường.

Các nhà nghiên cứu MIT tạo ra bộ mô phỏng ảnh thực tế có tên Tổng hợp và chuyển đổi hình ảnh ảo cho tự động hóa (VISTA). Hệ thống chỉ sử dụng một bộ dữ liệu nhỏ, như khung cảnh được ghi lại bởi những người lái xe trên đường, rồi từ đó tổng hợp ra vô hạn các góc nhìn trong khung cảnh đó từ các quỹ đạo mà xe có thể thực hiện trong thế giới thực.

Nhờ có rất nhiều các quỹ đạo và tình huống khác nhau, bộ điều khiển học cách điều hướng an toàn trong mọi tình huống mà nó gặp phải, bao gồm quay trở lại đúng làn sau khi phải di chuyển giữa các làn đường hoặc lấy lại quỹ đạo sau các tình huống “cận kề nguy hiểm”.

Trong các thử nghiệm thực, bộ điều khiển vận hành an toàn trong trình giả lập VISTA có thể vận hành an toàn một chiếc xe không người lái và tự đi qua các đường phố mà nó chưa từng thấy trước đây. Khi đặt xe ở những hướng ngoài làn đường, bắt chước nhiều tình huống suýt va chạm khác nhau, bộ điều khiển có thể đưa xe trở lại quỹ đạo an toàn trong vài giây. Một bài viết mô tả hệ thống này đã được xuất bản trong IEEE Robotics and Automation Letters và sẽ được trình bày tại hội nghị ICRA sắp diễn ra vào tháng 5.

Mô phỏng dựa trên dữ liệu

Các nhà nghiên cứu MIT đã tạo ra công cụ mô phỏng “dựa trên dữ liệu”. Dựa trên dữ liệu thực, hệ thống này tạo ra các quỹ đạo/ vị trí xe mới phù hợp với khung cảnh, cũng như khoảng cách và chuyển động của tất cả các vật thể trong cảnh.

Đầu tiên, họ thu thập dữ liệu video quay một vài con đường từ một người lái xe, và đưa dữ liệu đó vào hệ thống. Đối với mỗi khung hình, hệ thống sẽ chiếu mọi pixel thành một loại đám mây điểm 3 chiều (một tập hợp các điểm dữ liệu trong không gian). Sau đó, họ đặt một chiếc xe ảo bên trong thế giới đó. Khi xe ảo thực hiện lệnh lái, hệ thống sẽ tổng hợp ra một quỹ đạo mới thông qua đám mây điểm dựa trên đường cong lái, hướng và vận tốc của xe.

Hệ thống tạo ra một góc nhìn mới, như thật, trong khung cảnh. Để làm như vậy nó sử dụng một mạng nơ ron tích chập, thường được sử dụng cho các tác vụ xử lý ảnh, để ước tính bản đồ độ sâu, chứa thông tin liên quan đến khoảng cách của các đối tượng từ góc nhìn của bộ điều khiển. Tiếp theo, nó kết hợp bản đồ độ sâu với ước tính hướng của camera trong cảnh 3 chiều. Tất cả giúp xác định vị trí của xe và khoảng cách tương đối với mọi thứ trong trình giả lập ảo.

Dựa trên thông tin đó, nó định hướng lại các pixel gốc để tạo lại hình ảnh 3 chiều của khung cảnh theo góc nhìn mới của phương tiện. Nó cũng theo dõi chuyển động của các pixel để ghi lại chuyển động của ô tô và con người, và các vật thể chuyển động khác trong cảnh. “Điều này tương đương với việc cung cấp cho chiếc xe một số lượng vô hạn quỹ đạo”, Rus nói. “Khi thu thập dữ liệu, chỉ nhận được dữ liệu từ quỹ đạo cụ thể mà một lái xe đã đi. Nhưng chúng tôi có thể dựa trên quỹ đạo đó để tạo ra vô số các cách và môi trường lái xe tiềm năng. Điều này thực sự hiệu quả”.
Hoàng Nam dịch – Tiasang
Nguồn: https://techxplore.com/news/2020-03-driverless-cars-simulation-road.html

Bài gốc :

System trains driverless cars in simulation before they hit the road

Using a photorealistic simulation engine, vehicles learn to drive in the real world and recover from near-crash scenarios.
A simulation system invented at MIT to train driverless cars creates a photorealistic world with infinite steering possibilities, helping the cars learn to navigate a host of worse-case scenarios before cruising down real streets.  
Control systems, or “controllers,” for autonomous vehicles largely rely on real-world datasets of driving trajectories from human drivers. From these data, they learn how to emulate safe steering controls in a variety of situations. But real-world data from hazardous “edge cases,” such as nearly crashing or being forced off the road or into other lanes, are — fortunately — rare.
Some computer programs, called “simulation engines,” aim to imitate these situations by rendering detailed virtual roads to help train the controllers to recover. But the learned control from simulation has never been shown to transfer to reality on a full-scale vehicle.
The MIT researchers tackle the problem with their photorealistic simulator, called Virtual Image Synthesis and Transformation for Autonomy (VISTA). It uses only a small dataset, captured by humans driving on a road, to synthesize a practically infinite number of new viewpoints from trajectories that the vehicle could take in the real world. The controller is rewarded for the distance it travels without crashing, so it must learn by itself how to reach a destination safely. In doing so, the vehicle learns to safely navigate any situation it encounters, including regaining control after swerving between lanes or recovering from near-crashes.  
In tests, a controller trained within the VISTA simulator safely was able to be safely deployed onto a full-scale driverless car and to navigate through previously unseen streets. In positioning the car at off-road orientations that mimicked various near-crash situations, the controller was also able to successfully recover the car back into a safe driving trajectory within a few seconds. A paper describing the system has been published in IEEE Robotics and Automation Letters and will be presented at the upcoming ICRA conference in May.
“It’s tough to collect data in these edge cases that humans don’t experience on the road,” says first author Alexander Amini, a PhD student in the Computer Science and Artificial Intelligence Laboratory (CSAIL). “In our simulation, however, control systems can experience those situations, learn for themselves to recover from them, and remain robust when deployed onto vehicles in the real world.”
The work was done in collaboration with the Toyota Research Institute. Joining Amini on the paper are Igor Gilitschenski, a postdoc in CSAIL; Jacob Phillips, Julia Moseyko, and Rohan Banerjee, all undergraduates in CSAIL and the Department of Electrical Engineering and Computer Science; Sertac Karaman, an associate professor of aeronautics and astronautics; and Daniela Rus, director of CSAIL and the Andrew and Erna Viterbi Professor of Electrical Engineering and Computer Science.

Data-driven simulation

Historically, building simulation engines for training and testing autonomous vehicles has been largely a manual task. Companies and universities often employ teams of artists and engineers to sketch virtual environments, with accurate road markings, lanes, and even detailed leaves on trees. Some engines may also incorporate the physics of a car’s interaction with its environment, based on complex mathematical models.
But since there are so many different things to consider in complex real-world environments, it’s practically impossible to incorporate everything into the simulator. For that reason, there’s usually a mismatch between what controllers learn in simulation and how they operate in the real world.
Instead, the MIT researchers created what they call a “data-driven” simulation engine that synthesizes, from real data, new trajectories consistent with road appearance, as well as the distance and motion of all objects in the scene.
They first collect video data from a human driving down a few roads and feed that into the engine. For each frame, the engine projects every pixel into a type of 3D point cloud. Then, they place a virtual vehicle inside that world. When the vehicle makes a steering command, the engine synthesizes a new trajectory through the point cloud, based on the steering curve and the vehicle’s orientation and velocity.
Then, the engine uses that new trajectory to render a photorealistic scene. To do so, it uses a convolutional neural network — commonly used for image-processing tasks — to estimate a depth map, which contains information relating to the distance of objects from the controller’s viewpoint. It then combines the depth map with a technique that estimates the camera’s orientation within a 3D scene. That all helps pinpoint the vehicle’s location and relative distance from everything within the virtual simulator.
Based on that information, it reorients the original pixels to recreate a 3D representation of the world from the vehicle’s new viewpoint. It also tracks the motion of the pixels to capture the movement of the cars and people, and other moving objects, in the scene. “This is equivalent to providing the vehicle with an infinite number of possible trajectories,” Rus says. “Because when we collect physical data, we get data from the specific trajectory the car will follow. But we can modify that trajectory to cover all possible ways of and environments of driving. That’s really powerful.”

Reinforcement learning from scratch

Traditionally, researchers have been training autonomous vehicles by either following human defined rules of driving or by trying to imitate human drivers. But the researchers make their controller learn entirely from scratch under an “end-to-end” framework, meaning it takes as input only raw sensor data — such as visual observations of the road — and, from that data, predicts steering commands at outputs.
“We basically say, ‘Here’s an environment. You can do whatever you want. Just don’t crash into vehicles, and stay inside the lanes,’” Amini says.
This requires “reinforcement learning” (RL), a trial-and-error machine-learning technique that provides feedback signals whenever the car makes an error. In the researchers’ simulation engine, the controller begins by knowing nothing about how  to drive, what a lane marker is, or even other vehicles look like, so it starts executing random steering angles. It gets a feedback signal only when it crashes. At that point, it gets teleported to a new simulated location and has to execute a better set of steering angles to avoid crashing again. Over 10 to 15 hours of training, it uses these sparse feedback signals to learn to travel greater and greater distances without crashing.
After successfully driving 10,000 kilometers in simulation, the authors apply that learned controller onto their full-scale autonomous vehicle in the real world. The researchers say this is the first time a controller trained using end-to-end reinforcement learning in simulation has successful been deployed onto a full-scale autonomous car. “That was surprising to us. Not only has the controller never been on a real car before, but it’s also never even seen the roads before and has no prior knowledge on how humans drive,” Amini says.
Forcing the controller to run through all types of driving scenarios enabled it to regain control from disorienting positions — such as being half off the road or into another lane — and steer back into the correct lane within several seconds. “And other state-of-the-art controllers all tragically failed at that, because they never saw any data like this in training,” Amini says.
Next, the researchers hope to simulate all types of road conditions from a single driving trajectory, such as night and day, and sunny and rainy weather. They also hope to simulate more complex interactions with other vehicles on the road. “What if other cars start moving and jump in front of the vehicle?” Rus says. “Those are complex, real-world interactions we want to start testing.”
Rob Matheson | MIT News Office
Press Inquiries

Thank you so much

Tuesday, April 28, 2020

39 bài hát tiếng anh luyện trí não


39 bài hát tiếng anh luyện trí não

Nhiều thập kỷ qua, con người đã biết đến công dụng tăng năng suất làm việc của âm nhạc. Những ai nghe nhạc trong lúc làm việc thường cảm thấy thoải mái hơn và hoàn thành nhiệm vụ nhanh hơn. Khi vừa nói chuyện vừa có nhạc nền, mọi người phản hồi họ dễ cảm thấy hài lòng hơn.
Nghe nhạc luyện trí não.nguoidentubinhduong.com
Nghe nhạc luyện trí não
Gần đây, nền tảng chia sẻ nhạc trực tuyến CloudSound đã tiến hành cuộc khảo sát trên hơn một ngàn nhân viên và cấp quản lý để đánh giá cảm nhận của mọi người về âm nhạc tại nơi làm việc. Kết quả cho thấy:
78.4% người được khảo sát tin rằng âm nhạc giúp gia tăng năng suất làm việc.
Những ngành nghề khác nhau có mức độ cảm nhận tích cực khác nhau nhưng rõ nhất là ở lĩnh vực IT và xử lý dữ liệu.
Chỉ có 5.1% người được khảo sát nghĩ rằng những bài hát vào các dịp lễ (Holiday Songs) giúp họ làm việc hiệu quả hơn.
Những dòng nhạc giúp mang lại năng suất nhiều nhất: Rock cổ điển (31%), Alternative (27.4%) và Pop (26.1%).
Tại sao âm nhạc có thể giúp bạn làm việc hiệu quả hơn? Hóa ra âm nhạc có thể “lập trình” não bộ, ảnh hưởng đến suy nghĩ và cảm nhận của bạn. Tiến sĩ Victoria Williamson của Đại học Goldsmith, Luân Đôn, nói rằng: Những nghiên cứu chụp ảnh não bộ cho thấy những vùng não khác nhau có thể được kích hoạt bằng những thể loại âm nhạc khác nhau”.
Nói cách khác, bạn có thể nghe những loại nhạc đặc thù để lập trình bộ não của bạn suy nghĩ và cảm nhận theo những hướng nhất định.
Vậy, đâu là bài hát dễ giúp bạn làm việc hiệu quả và hài lòng với công việc nhất? Điều đó còn tùy thuộc vào sở thích và tính cách cá nhân. Dưới đây là 39 bài hát theo thứ tự bảng chữ cái mà 9 người thành công nhất trên thế giới có trong playlist của họ:
  1. “Are You Experienced” – Jimi Hendrix (1)
  2. “Beast of Burden” – The Rolling Stones (9)
  3. “Blowin’ in the Wind” – Peter, Paul & Mary (9)
  4. “Blue in Green” – Miles Davis (9)
  5. “Come Sail Away” – Styx (5)
  6. “Con Te Partiro” – Andrea Bocelli (2)
  7. “Emergency” – Icona Pop (4)
  8. “Fly Me to the Moon” – Frank Sinatra (2)
  9. “GTO” – The Datonas (6)
  10. “Hard Headed Woman” – Cat Stevens (9)
  11. “Have I Told You Lately” – Rod Stewart (7)
  12. “Highway 61 Revisted” – Bob Dylan (9)
  13. “How Much A Dollar Cost” – Kendrick Lamar (4)
  14. “I Was Here” – Beyonce (8)
  15. “I’m A Woman” – Koko Taylor (5)
  16. “If You Love Somebody Set Them Free” – Sting (4)
  17. “Imagine” – John Lennon (9)
  18. “Late for the Sky” – Jackson Browne (9)
  19. “Let’s Get It Started” – The Black Eyed Peas (4)
  20. “Lighters” – Bruno Mars (3)
  21. “Live It Up, Pts 1 & 2” – The Isley Brothers (4)
  22. “Love Song” – Sara Bareilles (8)
  23. “Moondance” – Van Morrison (5)
  24. “Old Landmark” – Aretha Franklin (5)
  25. “One” – U2 (1)
  26. “Perro Loco” – Forro In The Dark (4)
  27. “Radar Love” – Golden Earring (6)
  28. “Signed, Sealed, Delivered (I’m Yours) – Stevie Wonder (8)
  29. “Sinnerman” – Nina Simone (4)
  30. “Symphony of Psalms” – Igor Stravinsky (7)
  31. “The Goldberg Variations” – J.S. Bach (9)
  32. “Tightrope” – Janelle Monae (8)
  33. “Treat ‘Em Right” – Chubb Rock (8)
  34. “Truckin'” – The Grateful Dead (9)
  35. “Two of Us” – The Beatles (1)
  36. “Unbreakable” – Michael Jackson (8)
  37. “Under Pressure” – David Bowie & Queen (1)
  38. “What a Wonderful World” – Louis Armstrong (5)
  39. “Won’t Get Fooled Again” – The Who (9)
Những người thành công đó chính là:
  1. Bill Gates
  2. Elon Musk
  3. Mark Zuckerberg
  4. Barack Obama
  5. Neil deGrasse Tyson
  6. Bill Nye (The Science Guy)
  7. Stephen Hawking
  8. Michelle Obama
  9. Steve Jobs
Tuệ Nhiên (Theo Inc.com) / http://fili.vn/

Bài gốc :

39 Songs that Incredibly Successful People Use to Train their Brains

Music makes you more productive but here’s a playlist that might make you more successful.
Getty Images - nguoidentubinhduong
Getty Images
It’s been known for decades that music makes you more productive. People who listen to music at work feel better about the workplace and tasks get done more quickly. People even rate conversations as “more satisfying” when there’s background music present.
A recent survey of over a thousand employers and employees, conducted by the workplace music provider CloudSound gauged the respondents’ feelings about music in the work place. Among the findings:
  • Fully 78.4% of respondents believed that music increases their productivity
  • That positive effect spans industries but especially strong in IT and data processing.
  • Only 5.1% of respondents think Holiday Songs make them more productive. (Elves?)
  • The most productive genres: Classic Rock (31%), Alternative (27.4%) and Pop (26.1%).
Why does music make you more productive? Turns out that music “programs” your brain to think and feel in specific ways, as I explained in a previous column. To Dr. Victoria Williamson of Goldsmith’s College, London)”
“Brain imaging studies have shown that various parts of the brain may be activated by a piece of music.”
In other words, you can use specific pieces of music to “program” your brain to think and feel in specific ways.
So, then, which songs are the most likely to make YOU more productive and satisfied at work? That varies according to your individual background and personality, but here are 39 songs that nine of the world’s most successful people have in their playlist, in alphabetical order:
  1. “Are You Experienced” – Jimi Hendrix (1)
  2. “Beast of Burden” – The Rolling Stones (9)
  3. “Blowin’ in the Wind” – Peter, Paul & Mary (9)
  4. “Blue in Green” – Miles Davis (9)
  5. “Come Sail Away” – Styx (5)
  6. “Con Te Partiro” – Andrea Bocelli (2)
  7. “Emergency” – Icona Pop (4)
  8. “Fly Me to the Moon” – Frank Sinatra (2)
  9. “GTO” – The Datonas (6)
  10. “Hard Headed Woman” – Cat Stevens (9)
  11. “Have I Told You Lately” – Rod Stewart (7)
  12. “Highway 61 Revisted” – Bob Dylan (9)
  13. “How Much A Dollar Cost” – Kendrick Lamar (4)
  14. “I Was Here” – Beyonce (8)
  15. “I’m A Woman” – Koko Taylor (5)
  16. “If You Love Somebody Set Them Free” – Sting (4)
  17. “Imagine” – John Lennon (9)
  18. “Late for the Sky” – Jackson Browne (9)
  19. “Let’s Get It Started” – The Black Eyed Peas (4)
  20. “Lighters” – Bruno Mars (3)
  21. “Live It Up, Pts 1 & 2” – The Isley Brothers (4)
  22. “Love Song” – Sara Bareilles (8)
  23. “Moondance” – Van Morrison (5)
  24. “Old Landmark” – Aretha Franklin (5)
  25. “One” – U2 (1)
  26. “Perro Loco” – Forro In The Dark (4)
  27. “Radar Love” – Golden Earring (6)
  28. “Signed, Sealed, Delivered (I’m Yours) – Stevie Wonder (8)
  29. “Sinnerman” – Nina Simone (4)
  30. “Symphony of Psalms” – Igor Stravinsky (7)
  31. “The Goldberg Variations” – J.S. Bach (9)
  32. “Tightrope” – Janelle Monae (8)
  33. “Treat ‘Em Right” – Chubb Rock (8)
  34. “Truckin'” – The Grateful Dead (9)
  35. “Two of Us” – The Beatles (1)
  36. “Unbreakable” – Michael Jackson (8)
  37. “Under Pressure” – David Bowie & Queen (1)
  38. “What a Wonderful World” – Louis Armstrong (5)
  39. “Won’t Get Fooled Again” – The Who (9)
The successful people? Here they are (with links to where their playlists appeared):
  1. Bill Gates
  2. Elon Musk
  3. Mark Zuckerberg
  4. Barack Obama
  5. Neil deGrasse Tyson
  6. Bill Nye (The Science Guy)
  7. Stephen Hawking
  8. Michelle Obama
  9. Steve Jobs
By Geoffrey James, Contributing editor, Inc.com@Sales_Source

Thank you so much